(Rút ra từ bài "Hai lần tôi được gặp Bác Hồ", đăng trên báo Văn nghệ Hội Nhà văn, số Tết Quý Mùi - 2003)
Tôi sinh ra trong một ngõ nhỏ, nghèo ở Hà Nội - ngõ Phất Lộc (nay thuộc quận Hoàn Kiếm). Ra khỏi ngõ đã thấy ngay một cái cột to bằng thép, trên đỉnh cột là chiếc đồng hồ tròn to tướng, ngày xưa nhân dân quen gọi khu đó là "Cột Đồng hồ" (nay là khu vực gần chân cầu Chương Dương).
Lúc còn nhỏ, chắc tôi là đứa bé "kháu khỉnh", nên mỗi lần ra khỏi nhà, ai gặp tôi cũng trêu, gọi tôi là "Rồng Đất". Người ta gọi tôi là "Rồng Đất", bà nội tôi nói, vì tôi sinh ra vào năm Mậu Thìn, mà Thìn là tuổi Rồng, còn Đất là vì ông, bà, bố mẹ tôi đều là những người nghèo ở trong cái ngõ nghèo khó ấy. Tôi chả hiểu "Rồng Đất", "Rồng Trời" nó là cái gì, song mỗi lần bị gọi là "Rồng Đất" tôi lại tức tưởi khóc, mọi người càng cười, tôi lại càng "gào" to...
Mẹ tôi chết sớm lúc tôi lên ba, tôi ở với bà nội. Thương tôi mồ côi mẹ quá sớm, nên bà rất yêu tôi, còn tôi suốt ngày quanh quẩn bên bà nội hỏi bà đủ thứ... Có lần tôi hỏi:
- Bà ơi! Tại sao nghèo lại thành "Rồng đất"?
- Cháu ơi! đó là tại số cả.
- Thế số là cái gì? Nó có giống cái cột Đồng hồ không?
- Bà không biết. Thế này nhé, ông bà nghèo, bố mẹ cháu cũng nghèo, nên cháu cũng sẽ nghèo, thế gọi là cái số.
Tôi chẳng hiểu ra sao cả, mà mới ba, bốn tuổi đầu thì làm sao hiểu nối, tôi ôm lấy bà nội khóc to, nói:
- Không phải thế.
Bà nội ôm chặt lấy tôi, bà cũng khóc...
Vào những đêm có trăng sao, tôi nằng nặc đòi bà nội dẫn ra bờ đê sông Hồng để nhìn lên bầu trời đầy sao, xem Rồng Trời nó thế nào. Bà nội cũng chiều tôi, hơn nữa từ ngõ Phất Lộc ra đê chỉ đi qua cái Cột Đồng hồ là tới. Ngày xưa, trước năm 1945, nước sông Hồng còn gần bờ đê, chưa có nhà cửa san sát như bây giờ. Ngồi trên bờ đê có thể nhìn thấy dòng nước sông Hồng từ từ trôi về xuôi... Trước mặt là tả ngạn sông Hồng, ánh sáng từ những ngọn đèn dầu của các gia đình, lúc tỏ lúc mờ, tôi rất thích. Tôi tưởng tượng đó là những con đom đóm lập lòe lúc ẩn lúc hiện... Trên là vòm trời đầy sao lấp lánh, tôi thấy có một ông sao sáng nhất. Lần nào bà nội dắt tôi ra bờ đê tôi cũng nhìn thấy ông sao ấy.
Tôi hỏi bà nội:
- Bà ơi, cái ông sao sáng nhất kia có phải là cái mắt của Rồng Trời không? Tại sao cứ ngồi một chỗ thế?
- Bà cũng không biết, người ta nói đấy là ông tiên tên là Bắc Đẩu, ông ở một chỗ để chỉ đường cho những người đi đêm khỏi lạc lối.
Rồi bà tôi kể: Lúc ông nội cháu còn sống, có lần lên rừng bị lạc, ông phải trèo lên ngọn cây để tìm ông Bắc Đẩu mới ra được khỏi rừng đấy. Lúc đó sao tôi thấy ông tiên Bắc Đẩu tốt thế. Tôi rất thích ông Bắc Đẩu nên nói:
- Bà ơi, lớn lên cháu sẽ đi tìm ông Bắc Đẩu.
Bà tôi ôm chặt tôi vào lòng, xoa bàn tay nhăn nheo lên má tôi và cười. Nằm gọn trong lòng bà, gió từ sông Hồng thổi tới, thật mát và thích. Tôi chợt thấy mình đang chạy theo một ngôi sao to, sáng, lung linh đầy màu sắc đẹp. Mỗi lần tôi sắp đuổi kịp, ông sao ấy lại chạy nhanh hơn. Cứ thế tôi đuổi theo, đuổi mãi...
Nghe văng vắng bên tai: "Tỉnh ngủ chưa, về nhà thôi cháu ơi". Tôi dụi mắt, ngơ ngác, chả thấy ông sao nào cả. Nhìn sang bên bờ sông phía Gia Lâm vẫn những chấm đo đỏ như đom đóm, lập lòe, lúc tỏ lúc mờ...
Tuổi thơ của tôi, với bao nhiêu mơ ước về ông sao Bắc Đẩu, âm thầm, lặng lẽ trôi đi bên bờ đồng sông Nhị Hà như thế đó...
~*~
Năm 1943, tôi đã ở tuổi 15, đang học dở dang bậc thành chung (cấp 2 ngày nay) thì phải bỏ học. Bà tôi đã mất. Bố tôi, cô ruột tôi đã gồng mình lên để nuôi tôi đi học, mong sau này tôi thoát cảnh nghèo hèn, nhưng gia đình tôi không còn đủ sức chịu đựng nữa. Tôi đi làm thợ điện và bước vào cuộc đời tự kiếm sống. Thế là bao ước
mơ đẹp đẽ tan vỡ. Đêm đêm, tôi nằm ôm mặt khóc thầm, thương mình vì cái số phận của người nghèo. Bao nhiêu ký ức của tuổi thơ nằm sâu trong vô thức của tôi, đều trỗi dậy... Tôi chợt nghĩ: Có lẽ cái số phận con Rồng Đất, bà nội tôi đã nói ngày xưa nay ứng nghiệm chăng.
Tuy mới 15 tuổi đầu, nhưng tôi đã nếm trải biết bao cay đắng của cuộc đời người thợ và thấy bao điều tủi nhục, đau khổ của kiếp người nô lệ. Hàng ngày đi làm, tôi thấy bao cảnh người sắp chết đói, chỉ còn da bọc xương đi đứng xiêu vẹo, nằm vạ vật ở khắp nơi. Hàng ngày tiếng bánh xe bò lộc cộc, thê thảm chở đầy xác người chết đói...
Con người ai cũng muốn sống no ấm, hạnh phúc, ai cũng muốn từ bàn tay, khối óc của mình để tự mang lại hạnh phúc cho mình. Đó là cái bản chất chân thật nhất của con người nó nằm sâu trong vô thức, có lúc nó bộc lộ ra ý thức thành ước mơ, khát vọng, hoài bão. Còn đi tới bằng con đường nào lại thuộc về ý thức, lý trí, do giáo dục và tự rèn luyện nên. Còn tôi, vào một ngày năm 1944, tôi gặp lại bạn học cũ của tôi từ thời tiểu học, ở cái trường Trí Tri phố Hàng Quạt (nay ở chỗ đó vẫn có một trường tiểu học). Bạn tôi là Lê Thảo, anh còn có bí danh là Lê Chiêu. Hiện nay anh Lê Chiêu là Thiếu tướng Quân đội nhân dân đang nghỉ hưu ở số nhà 16A phố Lý Nam Đế - Hà Nội. Anh hoạt động cách mạng từ năm 1940. Từ đấy tôi đứng trong hàng ngũ những người cách mạng ở Hà Nội. Tôi chợt nhận ra, mình đã đứng trong vòng cung ánh sáng rực rỡ của sao Bắc Đẩu mà tôi hằng mơ ước đi tìm từ thuở ấu thơ.
Tôi là đội trưởng một đội Tự vệ chiến đấu. Đó là một tổ chức bán vũ trang dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội. Từ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tổ chức được hình thành ở nhiều nơi, cả ngoại thành và trong nội thành. Hoạt động theo nguyên tắc: bí mật, đơn tuyến. Tuy là đội trưởng một đội, nhưng tôi cũng chỉ có liên hệ duy nhất với người trực tiếp lãnh đạo mình là anh Lê Chiêu.
Sau khi Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội thắng lợi, xe tăng của quân đội Nhật án ngữ ở ngã tư đường Gambetta - dốc Hàng Kèn (nay là ngã tư Trần Hưng Đạo - Bà Triệu) đã rút, ngay chiều hôm đó - ngày 19-8-1945, toàn đội của tôi cùng nhiều bộ phận khác tập trung ở trại bảo an binh (nay là trụ sở của Công an vũ trang, số 40 Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm).
Thế là từ những thanh niên công nhân, học sinh Hà Nội yêu nước, đứng trong tổ chức tự vệ chiến đấu, trở thành Giải phóng quân Hà Nội, được tổ chức lại thành các đơn vị, dưới sự chỉ huy chung của ông Vương Thừa Vũ, còn chỉ huy trực tiếp chi đội chúng tôi là anh Lê Chiêu (lúc đó gọi là Chi đội Lê Chiêu).
Ngày 31-8-1945, hai chi đội của Giải phóng quân từ chiến khu Việt Bắc đã về tới Hà Nội. Trước đó ít hôm chúng tôi đã được lệnh chuyển lên đóng quân ở Sở Nông Lâm, trong vườn Bách Thảo, cạnh phủ Toàn quyền (nay là nhà làm việc của cơ quan Chính phủ, cạnh phủ Chủ tịch).
Sáng ngày 1-9-1945, anh Lê Chiêu, chi đội trưởng nói với tôi: "Này Xuân, ngày mai cậu chỉ huy tiểu đội ra gác dưới chân Kỳ đài, nơi Chính phủ Lâm thời ra mắt quốc dân, còn tiểu đội của Tường Kính, bố trí phía sau Kỳ đài, gần nơi còn quân Nhật đóng quân". Cả ngày 1-9 chúng tôi ra xem Kỳ đài và nơi sẽ phân công anh em đứng gác, thời gian còn lại thì lau súng, chuẩn bị quần áo cho thật đàng hoàng. Ngày đó chúng tôi bảo nhau như thế. Tuy là đội trưởng nhưng tôi mới 17 tuổi, từ ngày sống tập trung thành Giải phóng quân ấy đến ngày 2-9-1945 mới vẻn vẹn có 13 ngày, trong những ngày ấy vốn liếng quân sự cao nhất mới chỉ là mở quy-lát, cho đạn vào nòng rồi bóp cò súng thôi. Vậy, canh gác phải làm những gì? Chỉ huy ra sao tôi chưa hề biết. Song với lòng hăng hái cách mạng, với bầu máu nóng của tuổi trẻ, trong lòng chúng tôi đều bừng bừng một khí thế, cộng thêm niềm vinh dự, tự hào của các chàng trai Hà Nội.
Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 tại vườn hoa Ba Đình, Hà Nội. Bộ phận gác dưới chân Kỳ đài, mặc quần soóc, sơ mi cộc tay, đội mũ "cát" đứng gác là Giải phóng quân Hà Nội, Chi đội Lê Chiêu. Bên phải đồng chí Giải phóng quân (đứng sau người mặc áo sơ mi trắng) là Đội trưởng Giải phóng quân Đào Văn Xuân, đứng gác cùng đơn vị).
Ngày 2-9-1945 ấy tôi không thể nhớ nổi là chúng tôi ra gác rồi nhân dân mới kéo đến, hay nhân dân đã đến rất đông cùng lúc chúng tôi ra gác quanh Kỳ đài... Tôi chỉ còn hình dung như đang nhìn thấy nhân dân Hà Nội, mặc những bộ quần áo đẹp đứng đông nghìn nghịt cùng rừng cờ to, nhỏ đủ loại đỏ rực cả quảng trường. Tôi hiểu để bảo vệ an ninh cho ngày Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, ngày 2-9-1945 có biết bao lực lượng vũ trang, an ninh đã tham gia. Song ngày nay nhìn vào tấm ảnh lịch sử ấy, thấy rất rõ ở chân Kỳ đài sát phông vải có một người mặc dân sự cầm súng ngắn, đứng trước người thanh niên ấy là tôi và các đồng đội của tôi quanh Kỳ đài. Chúng tôi mặc áo sơ mi cộc tay, quần soóc, đội mũ cát, cầm súng trường đứng gác - Đó là tiểu đội Giải phóng quân Hà Nội thuộc Chi đội Lê Chiêu. Sau này nhiều người thường nhầm lẫn, tưởng đó là lực lượng tự vệ chiến đấu Sao tròn... Thực ra sau ngày Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thắng lợi, ngày 25-8-1945, Thành ủy Hà Nội quyết định thành lập lực lượng tự vệ chiến đấu mang tên "Tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu". Trên phù hiệu tròn, có hàng chữ TVCĐ. Lực lượng này có tham gia bảo vệ ngày lễ ấy, nhưng không phải là tiểu đội sơ mi cộc tay, đội mũ cát chúng tôi. Còn Giải phóng quân Hà Nội chúng tôi ngày đó chưa có quân hiệu, phù hiệu. Có người đã hỏi tôi về bộ quần áo ấy, thực ra đó là sắc phục của lính bảo an binh, chúng tôi được phát để mặc thống nhất khi canh gác và tuần tra ngoài phố...
Khi chiếc xe ô tô con màu đen đến, Chính phủ Lâm thời đã lên Kỳ đài, cả quảng trường vang rền tiếng: Hoan hô... Hoơn hô... Tôi cầm chặt khẩu súng trường trong tay, ngửa cổ lên nhìn xem "Ông Chủ tịch" là ai, tôi tưởng tượng chắc phải là một người dáng to lớn, quắc thước... Nhưng lạ quá, Chủ tịch của cả một nước cơ mà, sao lại thấy giản dị, bình thường như mọi ông già bình thường tôi vẫn gặp. Bộ râu đen, lại giống các cụ già nông thôn quê tôi, áo mặc rất bình thường so với nhiều người khá giả Hà Nội hồi đó. Cụ Chủ tịch lại đội chiếc mũ "cát" chả đẹp gì hơn mũ chúng tôi đội đang đứng gác...
Tất cả cái đó tạo cho tôi một cảm giác quen thuộc, quý mến và yêu thương... Khi giọng nói miền Trung ấm áp của Bác cất lên: "Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được...". Tôi thấy người bừng bừng khó tả, có những cái gì đó ở trong lồng ngực muốn tung ra. Tôi muốn trấn tĩnh để nghe tiếp, nhưng có lẽ do tuổi trẻ tôi chưa tự kiềm chế được mình, mà cũng còn có thể có những nguyên cớ nào khác nữa mà tôi không hiểu nổi, tự nhiên tôi miên man nghĩ đến cái đêm mưa phùn, trời rét căm căm, đầu năm 1945... Tôi đang ngồi trong nhà (lúc đó nhà tôi ở đầu phố Hàng Khoai, gần đầu cầu Long Biên), từ ngoài đường vọng vào tiếng rao đêm: "Ai bánh khúc nóng đ...â...y" rồi tiếp theo là tiếng thét thất thanh: "Cứu tôi với! Cứu tôi với", "Ôi giời ơi, nó cướp hết của tôi...". Tôi tưởng tên lính Nhật say nào đó đang ức hiếp người, tôi lao ra nơi tôi giấu một thanh gươm, nhìn qua cửa ra ngoài phố. Tôi sững sờ khi thấy cảnh tượng thật đau lòng. Người phụ nữ nghèo khổ bán bánh khúc kia, vừa kêu, vừa khóc cầm cái thúng nhỏ rỗng không, bổ bồm bộp lên đầu, lên lưng một đám người rách rưới đang vừa bò chạy vừa ấn vội miếng bánh vừa cướp được vào mồm.
~*~
Chợt giọng nói ấm áp vang lên: "Tôi nói đồng bào nghe rõ không", tôi như bừng tỉnh, hàng chục vạn lời đáp, rung cả quảng trường "Rõ..." tôi không nhớ là mình đang đứng gác cũng hô to: "Rõ".
Trên bầu trời Hà Nội, một chiếc máy bay to đen trũi của Đồng Minh đang vòng lượn, ngó nghiêng.
Cuộc mít tinh của hơn 50 vạn nhân dân Thủ đô kết thúc, gặp anh Lê Chiêu tôi hỏi: "Cụ Chủ tịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh là ai thế?". Anh Chiêu cười ôm vai tôi nói: "Cậu chưa hiểu à, Cụ Nguyễn Ái Quốc đấy". Tôi buột miệng nói: "Thế mà tôi không biết", trong óc tôi lóe lên ý nghĩ: Ôi tôi đã tìm thấy ông sao Bắc Đẩu rồi!
Từ ngày ấy câu nói kết thúc của Bác Hồ trong lần tôi vinh dự gặp lần đầu tiên ấy vang lên mãi trong tôi: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập” đã đi cùng tôi suốt cả cuộc đời, từ những trận chiến đấu đầu tiên ở Hà Nội, ngày Toàn quốc kháng chiến, đến trận đánh cuối cùng đêm ngày 6-5 ở Điện Biên Phủ tới chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975.