(Bài đã đăng trên báo Tuần Du lịch số 35 (31/8 - 7/9/1998) nhân kỷ niệm lần thứ 53 ngày Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9.)

Hà Nội đã vào thu, thời tiết vẫn nắng nóng. Trên ngã tư đường Trần Hưng Đạo - Bà Triệu, một tốp du khách đang vội vã qua đường. Nhìn họ đi về hướng Hồ Gươm, tôi chợt nghĩ, nếu họ biết được, ngã tư này, trước kia còn có tên là ngã tư dốc Hàng Kèn - Gambetta, và tại nơi đây, ngày Tổng khởi nghĩa 19-8-1945, có bảy thanh niên yêu nước, sẵn sàng hy sinh, dám nhận nhiệm vụ đánh xe tăng Nhật nhỉ. Chắc họ sẽ dừng lại nghỉ ngơi dưới gốc cây bên đường và suy nghĩ về Hà Nội, về những con người Việt Nam...

Đầu năm 1945, theo lời kêu gọi Toàn dân đứng lên đánh đuổi kẻ thù chung của Tổng bộ Việt Minh, nhiều nam nữ thanh niên yêu nước đã hăng hái tham gia các tổ chức cách mạng bí mật. Tôi đứng trong tổ chức tự vệ chiến đấu, một hình thức tổ chức vũ trang, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Đảng Cộng sản thành phố Hà Nội. 

Chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, đội chúng tôi đã tự trang bị đủ cả kiếm, súng ngắn, lựu đạn...

Sáng ngày 18-8-1945, theo chỉ đạo của anh Lê Chiêu (nay là thiếu tướng QĐND đã nghỉ hưu, trú tại 16A phố Lý Nam Đế, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội).

"Toàn đội phải mang theo đầy đủ vũ khí, sáng 19-8-1945 tập trung tại nhà máy gạch Năm Diệm, khu vực Tám Mái để làm lễ xuất quân: Tổng khởi nghĩa".

Đã nhiều lần tôi chạm trán với lính Nhật, tôi chưa bao giờ biết sợ, lần này được lệnh Tổng khởi nghĩa, tôi cảm thấy lo lắng, bồn chồn... Đêm 18-8, tôi mài lại lưỡi kiếm cho thật bén, chuẩn bị cờ và băng đỏ cho toàn đội. Sáng sớm ngày 19-8-1945, anh Tá thợ nề, một đội viên giỏi võ, và rất dũng cảm cầm cờ đi đầu. Toàn đội tiến về Tám Mái. Đến nơi, tôi mới biết lực lượng tự vệ cả nội và ngoại thành rất đông. Tất cả đều hừng hực một khí thế xung trận. Sau khi anh Lê Chiêu kêu gọi: Quyết chiến đấu để giành độc lập, anh Tuấn Sơn bắn phát súng làm hiệu lệnh: Tiến quân.

Tất cả rầm rập tiến về quảng trường Nhà hát Lớn (nay là quảng trường Cách mạng Tháng Tám). Sau cuộc mít tinh ở Nhà hát Lớn, đội tự vệ chiến đấu chúng tôi, cùng nhiều lực lượng khác tiến đến phủ Khâm Sai (nay là nhà khách Chính phủ). Trong sân phủ Khâm Sai thấp thoáng nhiều lính bảo an binh súng trong tay, nấp sau các gốc cây, các ô cửa số...

Vây quanh phủ Khâm Sai, đông nghìn nghịt quần chúng cách mạng. Nhiều tiếng thét: "Đả đảo phát xít Nhật", "Đả đảo bè lũ tay sai" vang lên như sấm...

Nhiều thành viên đội tự vệ, thanh niên cứu quốc đã áp sát hàng rào sắt và bắt đầu leo lên... Đội chúng tôi cũng đã áp sát cổng chính. Nhiều tiếng hô lớn: "Nhẩy vào đi"! "Nhẩy vào đi"...

Lúc này tôi thấy hơi lúng túng, nhìn quanh không thấy anh Lê Chiêu đâu. Đội tôi một số đã leo lên cổng sắt... Đúng lúc, một chú bé chạy tới nói: "Anh Lê Chiêu bảo, đội anh ra ngay trại bảo an binh, đánh xe tăng Nhật".

Tôi không biết chú bé, nhưng nghe tên anh Lê Chiêu, tôi tin ngay. Toàn đội lách đám đông chạy đến trại bảo an binh (40 năm sau gặp lại chú bé ấy, trung tá Lê Thống - đã nghỉ hưu - nhà ở 34A phố Kim Mã).

Đến ngã tư dốc Hàng Rèn - Gambetta, một chiếc xe tăng án ngữ ở đó, nòng đại bác hướng về phố Huế. Cách sau xe tăng độ mươi mét là một ổ súng máy. Hai tên lính Nhật, nằm cạnh súng, tư thế sẵn sàng...

Chúng tôi áp sát bọn chúng cách một khoảng độ 3-4m. Quần chúng cách mạng, đứng kín đặc cả bốn hướng ngã tư. Tình thế thật căng thẳng, các bạn tôi luôn luôn thúc: Đánh chưa? Đánh chưa?... Tôi nghe thấy loa phóng thanh gọi "Anh Lê Chiêu, đại diện du kích ở đâu? Vào ngay phủ Khâm Sai". Không biết có chuyện gì xảy ra trong đó, nhưng đối với tôi, quan trọng hơn là không còn ai là cấp trên để xin ý kiến.

Tôi bật ra ý nghĩ và nói với anh em: "Khi nào nó bắn thì đánh". Tôi phân công luôn. Nếu nó bắn, tôi sẽ nhẩy vào, lia kiếm, chém đầu tên bắn súng máy. Các anh Tá và tổ học sinh anh Đức sẽ trợ lực cho tôi. Tôi quay lại bảo anh Vân, tổ trưởng tổ tự vệ công nhân: "Các cậu đánh xe tăng, nhẩy lên nhét lựu đạn vào xe, rồi vít cửa đậy lại".

Thấy anh em đồng tình đáp: Được đấy. Tôi yên tâm. Tất cả đội chỉ còn một chí hướng tập trung theo dõi bọn Nhật để kịp thời hành động. Lúc đó, tôi nghĩ, vây quanh xe tăng và ổ súng máy, có biết bao nhiêu thanh niên, tay gươm, tay súng, đang nhìn chúng bằng những tia mắt căm hờn, chắc chúng cũng rõ tình thế ấy, và không thể coi thường...

Suốt cả ngày, chúng tôi không ăn, uống nhưng không thấy đói. Mãi đến khi xe tăng đã rút, mới thấy bải hoải cả chân tay. Gặp anh Lê Chiêu, anh giơ hai tay lên trời nói: Thắng lợi rồi! Tôi sững người bàng hoàng vì sung sướng. Toàn bộ theo anh Lê Chiêu vào ngay trại bảo an binh chiều 19-8-1945. Từ đó chúng tôi trở thành Giải phóng quân Hà Nội - Chi đội Lê Chiêu. Chi đội chúng tôi sau đó được vinh dự đứng bảo vệ ngay chân Kỳ đài, nơi Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945.

Nhiều năm sau, mỗi khi nhớ lại sự kiện ngày 19-8-1945, tôi vẫn không thể tự giải thích được đầy đủ, vì sao tôi, một thanh niên sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, mới 17 tuổi đầu, trong tình huống ranh giới giữa đổ máu và không đổ máu chỉ tính bằng gang tấc ấy, lại có thể nghĩ ra một quyết định rất đúng: khi nào địch nổ súng thì đánh. 

Lịch sử chẳng đã ghi lại sự kiện đổ máu ở thị xã Hà Đông ngày 20-8-1945 đó sao... "Quần chúng phẫn nộ tiến sang chiếm trại bảo an bình, tên quản Dưỡng hạ lệnh cho binh lính xả súng vào quần chúng biểu tình làm chết 47 người, hơn 30 người bị thương... (Viện Lịch sử Đảng - Tổng khởi nghĩa Tháng 8-1945. Nxb Sự thật - Hà Nội 1985 - trang 185).

Phải chăng, tôi đã có quyết định đúng, là do truyền thống dựng nước và giữ nước của tổ tiên ta, đã ăn sâu vào máu thịt của mỗi người dân Việt Nam. Dân tộc Việt Nam ta buộc phải chiến đấu khi Tổ quốc lâm nguy, khi an ninh của dân tộc bị xâm phạm. Truyền thống đó đã nằm sâu trong tiềm thức của mỗi người. Nó vụt biến thành ý thức chủ đạo cho hành động khi cần đến.

19-6-1998

~*~

Sáng 20-8, nhiệm vụ đầu tiên của tiểu đội Giải phóng quân: đi tuần tra, giữ gìn an ninh ở Thủ đô. Là đội trưởng, tôi vẫn nếp cũ, trực tiếp dẫn một tổ đi tuần. Tổ tuần tra đầu tiên của Chi đội Lê Chiêu có: Tôi, Đức và Triều.

Cả ngày 19-8 đói nên tôi cho anh Triều về nhà lo tiền cho tổ ăn phở. Gia đình anh Triều khá hơn cả, nhà anh mở tiệm bán giò, chả ở phố Hàng Giấy. Chúng tôi lấy làm vinh dự vì buổi tuần tra đầu tiên ấy.

Tôi lại nẩy sáng kiến, sẽ đi tuần trên những phố phường, nơi đã gắn bó với tôi từ tuổi ấu thơ. Sáng sớm ba thanh niên mặc chững chạc những bộ quần áo mình có, tay đeo băng đỏ có đính sao vàng, súng cắm lê, cầm ngang, từ từ đi ra khỏi trại bảo an binh, đi vòng đến nhà "gô-đa" (bách hóa Tổng hợp ngày nay), rẽ qua đại lộ Ca-rô (Tràng Thị), tới phố Julien Blanc (phố Phủ Doãn). Chúng tôi đứng chào trường Gia Long, nơi tôi học những năm tháng ở bậc tiểu học, nơi tôi đã ngồi lặng nghe thầy giáo Lê Tư Lành giảng về môn lịch sử. Ngày ấy tôi thấy thương thầy Lành phải cõng cha già chạy giặc, tôi thấy ghét Tây, vừa ghét, vừa thương ông già "Đả thạch" (thầy Lành giảng: Tôn Thất Thuyết thất bại, ngày ngày uống rượu, rút gươm chém hòn đá, nên dân đặt tên: Đả thạch). Qua phố Hàng Bông, rẽ ra đường Hăng ri dor liăng (phố Phùng Hưng ngày nay) để nhìn ngôi trường Thăng Long, nơi tôi đã chấm dứt quãng đời học sinh, bước vào đời thợ và cũng từ đó, mở đầu cuộc đời cách mạng. Dẫn tổ về phố Hàng Giấy, nhìn lại nơi tôi, Đức, Triều và nhiều bạn nhỏ tối tối chơi nhảy cừu và bao trò tinh nghịch của tuổi học trò... Cuối cùng cả tổ về phố Hàng Khoai, nơi che chở cho tôi những ngày đầu Cách mạng và cũng là nơi toàn đội xuất phát xung trận ngày 19-8-1945.

Tất cả bốn anh em vào nhà tôi, bỏ súng vào tủ, kéo ra phố ăn bữa "phở khao quân".

Hôm đó, bố tôi ở nhà. Tôi chắc, bố tôi rất tự hào về tôi và các bạn của tôi. Tôi nghĩ: nếu mẹ tôi còn sống, chắc người mẹ thân yêu từ nhỏ tôi không bao giờ gặp sẽ khóc khi nhìn thấy tôi ngày hôm ấy. Bất cứ người cha, người mẹ nào mà chả sung sướng, khi thấy con mình thật sự là một con người chân chính.

Sau khi Giải phóng quân ở chiến khu Việt Bắc về, chúng tôi rời trại bảo an binh, toàn chi đội Giải phóng quân Hà Nội do anh Lê Chiêu chỉ huy, lên đóng quân ở sở Nông Lâm (nay là cơ quan làm việc của Chính phủ), cạnh phủ Toàn quyền cũ (nay là Phủ Chủ tịch).

Ngày 2-9-1945, chi đội được giao nhiệm vụ bảo vệ Lễ đài ở vườn hoa Ba Đình, nơi Chính phủ ra mắt nhân dân. Các tiểu đội khác được giao nhiệm vụ canh gác ở vòng ngoài. Tiểu đội Giải phóng quân chúng tôi, được anh Lê Chiêu tin cẩn, giao canh gác ngay chân Lễ đài. Lúc này chúng tôi đã rất "chính quy", mặc thống nhất quần soóc, áo sơ mi cộc tay, đội mũ cát. Tất cả trang phục đó đều là của lính bảo an binh cũ. Để phân biệt với lính bảo an binh cũ, mặc dầu đã rất rõ, từ lâu chúng tôi quy ước với nhau, khi đội mũ đều bỏ quai xuống cằm.

Từ tinh mơ hôm 2-9-1945, khi nhân dân bắt đầu tiến vào quảng trường, tiểu đội Giải phóng quân Hà Nội chúng tôi đã nghiêm chỉnh đứng gác quanh Lễ đài.