Sau khi tham gia bảo vệ Kỳ đài, nơi Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, ở Vườn hoa Ba Đình - Hà Nội, Chi đội Giải phóng quân Hà Nội chúng tôi chuyển về đóng quân ở Ba Thá. 

Tình thế Tổ quốc ta, ngay từ tháng 9 năm 1945 đã có những diễn biến rất phức tạp. Nhân danh quân Đồng Minh vào giải giáp quân Nhật, quân đội Anh đã đổ bộ vào phía Nam Tổ quốc ta. "Ngày 20 tháng 9 năm 1945, Tướng Gờ-ra-xây, ra bản thông báo số 1, y khẳng định quyền duy trì trật tự của quân Anh, y ra lệnh cấm mang vũ khí và tuyên bố những ai vi phạm các quy định của y, sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, kể cả xử bắn". Rồi "bọn Anh tới chiếm trại giam, thả tất cả những tên Pháp nhảy dù xuống Nam Bộ sau ngày khởi nghĩa bị ta bắt và giữ tại đó. Một ngàn rưỡi lính lê dương Pháp của Trung đoàn Bộ bình thuộc địa số 11 đã được bọn Anh đưa ra khỏi trại tù binh Nhật và trang bị lại. 

Sáng sớm ngày 23 tháng 9 năm 1945, bọn lính Pháp của Trung đoàn 11 cùng một đơn vị lê dương mới từ Pháp sang, được quân Anh, quân Nhật yểm trợ xô ra các ngả đường, chúng đánh chiếm các đồn cảnh sát của ta, và bắn giết đồng bào ta...

Cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta chống thực dân Pháp xâm lược đã bùng nổ trên chiến trường Nam Bộ." (Võ Nguyên Giáp - Những năm tháng không thể nào quên, NXB Quân đội nhân dân, 1977, trang 53).

Trên miền Bắc Việt Nam, Quân đội của Tưởng Giới Thạch nhân danh quân đồng minh vào tước khí giới Nhật. Đảng ta đã có những đánh giá: "Dã tâm của bọn Quốc dân Đảng Trung Hoa, chúng ta rõ chúng là kẻ thù không đội trời chung của cách mạng. Ta phải cảnh giác đề phòng chúng lật ta để thay thế bằng bọn tay sai, phải khôn khéo, tìm mọi cách tránh, xung đột" (Võ Nguyên Giáp - Những chặng đường lịch sử, NXB Văn học, 1977, trang 247).

"Hà Ứng Khâm, Tổng tham mưu trưởng quân đội Quốc dân Đảng Trung Hoa, một tên chống cộng khét tiếng, đã giục Lư Hán điểu quân vào miền Bắc Việt Nam cho bọn Quốc dân đảng tin rằng đây là một thời cơ thuận lợi để thôn tính miền Bắc Việt Nam", chúng "Sắp sẵn những con bài gồm những tên tay sai người Việt ở Trung Hoa như: Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam... Chúng thuộc hai Tổ chức: Việt Nam cách mạng đồng minh hội và Việt Nam quốc dân đảng, sống từ lâu ở nước ngoài, không có liên hệ gì với phong trào trong nước".

Quân đội của Tưởng Giới Thạch, gồm 4 quân đoàn: Quân đoàn 93, Quân đoàn 62, Quân đoàn 52 và Quân đoàn 60. Tổng số quân là mười tám vạn từ nhiều hướng tiến vào miền Bắc nước ta.

Quân đoàn 62 vào tới Cao Bằng và Lạng Sơn, "Những tên chỉ huy Quân đoàn 62 đòi tước vũ khí các lực lượng vũ trang ta tại Lạng Sơn, Cao Bằng. Bộ đội ta không chịu, chúng đem quân tới chiếm các doanh trại của Quân giải phóng. Bọn Việt gian cách mệnh đồng minh lại núp sau lưỡi lê quân Tưởng xông vào trụ sở của Ủy ban Nhân dân tỉnh.

Để tránh xô xát lớn, các cơ quan chính quyền đoàn thể và các lực lượng vũ trang ta phải tạm giãn ra vùng xung quanh, nhân dân lập tức thực hiện "Vườn không nhà trống", thị xã trở nên vắng ngắt (Sđd trang 249).

Còn tại nước Pháp, trước tháng 9 năm 1945, Đờ-gôn - Tổng thống Pháp đã "đưa ra một bản tuyên bố về quy chế mới cho chế độ chính trị của Pháp tại Đông Dương. Theo bản tuyên bố này, Đông Dương sẽ trở thành một Liên bang gồm năm "nước" khác nhau (ngoài Lào, Campuchia, chúng còn chia Việt Nam ra làm ba "nước", Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ). Các nước này sẽ được hưởng một chế độ gọi là: "Chế độ tự trị ở bên trong".

Liên Bang này sẽ có một chính phủ Liên bang đứng đầu là một "Quan toàn quyền" đại diện cho nước Pháp" (Sđd trang 285).

Tình hình phức tạp ngày đó báo cho nhân dân Việt Nam ta một tín hiệu: Quân Pháp nhất định quay trở lại xâm lược nước ta và cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của toàn thể nhân dân ta có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Chèo chống con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua sóng gió thời gian này là một sứ mệnh lịch sử nặng nề đặt ra cho Bác Hồ và Đảng ta.