Chi đội Giải phóng quân Lê Chiêu chúng tôi đóng quân ở Ba Thá. Thời gian này anh Lê Quân, một thanh niên Hà Nội, hoạt động cách mạng từ trước tháng 8 năm 1945, đã được trên chỉ định về thay anh Lê Chiêu làm chi đội trưởng. Đất nước đang ở thế "nước sôi, lửa bỏng", nhiều anh em trong chi đội, bộ phận thì lên đường "Nam tiến". Ra tiễn anh em ở sân ga Hàng Cỏ (ga Hà Nội ngày nay), nhìn những chiến sĩ Vệ quốc ngồi trên toa tàu, ngó đầu ra vẫy chào và hô lên "Quyết chiến", tôi thấy buồn và tủi thân vì mình không được lên đường vào Nam. Khoảng cuối tháng giêng năm 1946, tàn quân Pháp chạy trốn quân Nhật sang vùng biên giới Trung Hoa - Việt Nam, từ đảo chính ngày 9 tháng 3 năm 1945 đã tràn về đất Lai Châu - Sơn La. Mặc dù đã sắp tết (tháng 1-1946 tức tháng chạp năm Ất Dậu) nên "ngay trong những ngày Tết Âm lịch, một số đơn vị Vệ quốc đoàn đã nhận được lệnh tiến gấp lên Tây Bắc ngăn chặn quân địch" (Võ Nguyên Giáp - Những chặng đường lịch sử, NXB Văn học, 1977, trang 339). Toàn bộ chi đội chúng tôi lên đường Tây tiến, tôi lại một lần nữa không gặp may, không được cùng anh em lên đường. Tôi được điều về nhận nhiệm vụ Chính trị viên Trung đội, thuộc Đại đội 134, Tiểu đoàn 56, đóng quân ở Trại bảo an Binh (cũ) trong thị xã Hà Đông với nhiệm vụ sẵn sàng tham gia chiến đấu bảo vệ Thủ đô.

Tiểu đoàn trưởng là Nguyễn Anh Đệ (nay anh Đệ đã mất), Chính trị viên Tiểu đoàn là anh Lê Chiêu người trực tiếp lãnh đạo đội tự vệ chiến đấu chúng tôi thời kỳ trước tháng 8 năm 1945 ở Hà Nội. Gặp lại bạn chiến đấu tôi rất mừng.

Quân Tưởng vào miền Bắc với nhiệm vụ "Diệt cộng, cầm Hồ", tức là diệt Đảng Cộng sản và bắt cầm tù Hồ Chí Minh. Trong tình hình ấy, về sách lược, Đảng ta tuyên bố: "Tự giải tán" thực chất là rút vào hoạt động bí mật và đổi tên Đảng thành "Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác". Các tổ chức Đảng trong quân đội, lúc đó chúng tôi gọi là "Hội".

Tôi rất tự hào được đứng trong hàng ngũ Đảng Cộng sản Đông Dương, ở thời điểm sôi động và nóng bỏng ấy. Trên đường phố nhân dân Hà Nội đã chứng kiến bao cảnh gây rối, khiêu khích của quân đội Pháp, lẫn cảnh quân Tầu Tưởng, bọn Quốc dân đảng người Việt, theo chân quân Tưởng về cũng công khai phá rối. Là một thanh niên Hà Nội, đã đứng lên tham gia cuộc Cách mạng Tháng 8 năm 1945, tôi thấy lòng mình sôi sục, căm thù. Có địp về thăm Hà Nội tôi đến trụ sở của bọn Quốc dân đảng ở phố Quán Thánh, quan sát những việc làm của chúng như rải truyền đơn nói xấu Chính phủ ta và chúng ra rả dùng loa nói bao điều xằng bậy về Mặt trận Việt Minh, về Hồ Chủ tịch... 

Ngày 20 tháng 11 năm 1946, quân đội Pháp đã gây ra vụ xung đột ở Hải Phòng... "11 giờ trưa 20-11-1946 một đơn vị xe bọc thép Pháp tiến đánh khu vực nhà ga" đến "2 giờ chiều quân Pháp có xe tăng trợ lực tiến đánh vào Nhà hát Lớn ở trung tâm thành phố". Chúng dùng cả đại bác ở Cát Bi, tiếng súng nổ rải rác suốt đêm và nhiều ngày sau...

Thế là từ tháng 11 năm 1946 quân Pháp đã đẩy mạnh các hoạt động lấn chiếm ở Sơn La, Lạng Sơn, Hòn Gai... Ngày 20 quân Pháp đánh chiếm Lạng Sơn và cảng Hải Phòng. Ngày 23 quân Pháp chiếm cả thành phố Hải Phòng và sân bay Cát Bi... (Vương Thừa Vũ - Trưởng thành từ trong chiến đấu, NXB Quân đội nhân dân, 1977, trang 99). "Trận Hải Phòng là trận đánh mở màn cho một quy mô mới của cuộc chiến tranh cướp nước. Kẻ thù đã mở rộng chiến tranh xâm lược trên nửa phần phía Nam của đất nước ta ra toàn cõi Việt Nam, đồng thời ra toàn bán đảo Đông Dương” (Võ Nguyên Giáp - Những chặng đường lịch sử, NXB Văn học 1977, trang 540-547).

Tại Hà Nội, ngày 17-12-1946 quân Pháp tàn sát nhân dân ở khu phố Yên Ninh - Hàng Bún, và chúng gây ra nhiều vụ khiêu khích trên các đường phố Thủ đô. Ngày 18-12-1946, quân Pháp chiếm Nha Tài chính (nay là Bộ Ngoại giao), Bộ Giao thông... nhân dân và lực lượng vũ trang Hà Nội nén lòng chịu đựng chờ lệnh... 

Chuẩn bị kháng chiến, Hà Nội được tổ chức thành chiến khu XI. Bộ chỉ huy gồm Khu trưởng - Vương Thừa Vũ, Chính trị ủy viên - Trần Độ, Bí thư Đảng ủy - Nguyễn Văn Trân. Các khu được liên kết lại thành 3 liên khu: Liên khu I, II và III.

Bên cạnh các tổ chức vũ trang ở Hà Nội, Hà Nội được tăng cường 5 tiểu đoàn Vệ quốc đoàn:

Tại Liên khu I có Tiểu đoàn 101

Ở Liên khu II có hai Tiểu đoàn: 77 và 212

Ở Liên khu III có 2 tiểu đoàn: 145 và 532

Sau tăng thêm 2 Tiểu đoàn 13 và 56. Cả Hà Nội đã sẵn sàng. 

Vào tháng 12 năm 1946, Tiểu đoàn 56 được điều động đóng quân ở khu vực Sân bay Bạch Mai. Đại đội 134 chúng tôi ở khu vực Văn Điển. Đêm 19-12-1946 đứng ở Cầu Văn Điển nhìn vào Hà Nội, nhân dân Thủ đô bồng bế em nhỏ, gánh quần áo tản ra thành phố, lòng tôi xót xa.

Tôi thầm nghĩ không biết gia đình tôi hiện nay trôi dạt nơi nào.

Ngày hôm sau, chúng tôi tiến vào Ô Cầu Dền, rồi trận thử lửa đầu tiên cũng đã đến...

Vào khoảng cuối tháng 12 năm 1946, đơn vị tôi bố trí ở ven một làng, sau một ngôi chùa nhìn ra khu Đông Dương - Học Xá (tức là Đại học Bách Khoa ngày nay), chuẩn bị đánh địch tràn xuống. Tôi nằm trong một hố cùng một chiến sĩ, hố nông choèn choèn không thể gọi là công sự, vì lúc đó tôi chưa có một chút kiến thức gì về quân sự cả... Súng của địch nổ suốt đêm, mảnh đạn bắn nát cây cối xung quanh...

Tờ mờ sáng, ngoài lũy tre nơi tôi bố trí bỗng có tiếng kêu: "Cứu tôi với". Tôi đoán có lẽ ai đó bị thương, tôi vội chồm dậy định chạy ra cứu bỗng một loạt tiểu liên nổ vang. Không biết vì sao lúc đó tôi phản ứng rất nhanh, tôi nằm xấp xuống đất, đạn chíu chíu trên đầu, các gốc tre bị bắn toác ra. Tôi trườn về hố chợt nghĩ "Chết rồi, bọn Việt gian nó lừa mình để điều tra nơi bố trí quân".

Đó là bài học vỡ lòng đầu tiên của cuộc đời chinh chiến của tôi.

Sau vài trận đánh ở khu vực Ô Cầu Dền, đầu tháng Giêng năm 1947 đại đội tôi được chuyển về mặt trận Giảng Võ, và đây mới là trận thử lửa thực sự của một thanh niên Hà Nội vừa tròn 18 tuổi như tôi.