(*) Bài đã đăng trên báo Văn nghệ số ra ngày 12-9-1999.
Đầu năm 1949, Bác Hồ chủ tọa một cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng. Hội nghị đã ra nghị quyết về phương châm chiến lược cho giai đoạn mới của cuộc kháng chiến: "Tích cực cầm cự, chuẩn bị Tổng phản công". Tình hình trên đòi hỏi phải tăng cường công tác đào tạo cán bộ. Sau khi học xong lớp bổ túc Trung - Sơ cấp về Quân sự ở Soi Mít, thuộc xã Tân Cương, Đồng Hỷ, Thái Nguyên, tôi được điều về làm cán bộ trường Lục quân Trần Quốc Tuấn khóa V. Trường ở thôn Bình Định, xã Bình Sơn, thị xã Sông
Công, Thái Nguyên, cách trường Bổ túc Trung sơ cấp độ nửa ngày đường.
Vào thời gian ấy, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra rất ác liệt. Tuy quân viễn chinh Pháp "mới được tăng thêm 3 vạn quân, đưa tổng số quân lên tới 16 vạn", nhưng quân và dân ta vẫn giành được nhiều thắng lợi, có ý nghĩa to lớn.
Tình hình chung có nhiều thuận lợi, bên nước Bạn, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã giải phóng hoàn toàn Hoa Nam. Để thực hiện được nhiệm vụ to lớn về đào tạo cán bộ, lại được sự giúp đỡ của Bạn, vào khoảng gần cuối năm 1949, lớp Bổ túc Trung - sơ cấp và trường Lục quân Trần Quốc Tuấn khóa VI được lệnh hành quân chuyển đến địa điểm mới.
Ai nấy rất phấn khởi, nhất là khí thế học tập để Tổng phản công. Những đêm lửa trại, chúng tôi không thể nín cười được, khi "Phụng Ngoáy", một học viên khóa V, vừa hát vừa "ngoáy đít".
... "Trường Lục quân đang cần lính đánh Tây... Tớ vội vàng bỏ nhà ra đi ngay.
Bao nhiêu việc "ấm ớ" phó thác cho bu mày"... rõ thật là vui. Một khí thế sục sôi đánh giặc.
Tiểu đoàn Lục quân, do Duy Vân làm Tiểu đoàn trưởng - nay anh là Thiếu tướng đã nghỉ hưu ở Hà Nội. Tôi là Chính trị viên. Tiểu đoàn có 3 đại đội: Đại đội học viên khóa V, đại đội khóa VI và một đại đội cán bộ Dân - Chính - Đảng mới được bổ xung vào quân đội. Đại đội mang tên Lê Hồng Phong.
Ngày ấy, cuộc kháng chiến của nhân dân ta thật gian khổ, có lẽ ngày nay ít người hình dung nổi. Tuy là nhà trường đào tạo cán bộ, nhất là giai đoạn chuẩn bị Tổng phản công, thì phải có ưu tiên hơn, song "tiêu chuẩn" có gì cao đâu. Cơm thường là gạo hẩm, nếu ăn nóng thì có mùi rất khó chịu. Thức ăn quen thuộc là măng rừng, nấu bằng nước suối... Nhưng ăn cơm gạo hẩm, cũng là ưu tiên rất lớn rồi, vì ngay Bác Hồ và các đồng chí trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng, có ăn gì hơn đâu. Trong "chiến đấu, trong vòng vây", Đại tướng Võ Nguyên Giáp có kể lại "... đến bữa cơm, Bác và chúng tôi, cùng tất cả các đồng chí làm việc trong cơ quan, quây quần bên mấy chiếc bàn tre. Rá cơm đưa lên phần lớn là sắn cơ quan tăng gia, gạo chỉ loáng thoáng. Thức ăn duy nhất là măng rừng chấm muối"...
Về ăn thì như vậy, còn "lương - lậu" đã làm gì có. Mỗi tháng, được ít tiền phụ cấp ít ỏi. Cơ sở để tính là giá trị mấy kilô gạo. Với số tiền phụ cấp của cán bộ tiểu đoàn, tôi chỉ đủ mua hộp thuốc đánh răng, bánh xà phòng để giặt, nếu không tiết kiệm, cao hứng lên ăn vài cái kẹo là nhẵn túi. Tình hình đời sống như vậy, nên thuốc men của cả tiểu đoàn, cũng chỉ khiêm tốn nằm gọn trong cái túi nhỏ đeo "toòng teng" bên vai đồng chí y tá. Tôi đã có lần bị sốt rét, rồi đi lỏng, đi kiết... thật là kinh khủng. Bị bệnh ấy, sức sút rất nhanh, người tọp đi như quả cam đã vắt kiệt nước...
Vì thế, chuẩn bị cho hành quân, về phần cá nhân, tôi ra "Thủ đô Phúc Trìu", sắm một đôi dép lốp thật chắc, còn bao nhiêu tiền dồn mua hết thuốc ký ninh và "Stovarsol" (thuốc chữa đi lỏng, đi kiết).
Trên đường hành quân từ xã Tân Cương đến Hà Giang, học viên Nguyễn Văn Bổng ở Đại đội Lê Hồng Phong bị đi kiết nặng. Sức khỏe sút rất nhanh. Các học viên trong tiểu đội đã chia nhau mang hộ hết đồ đạc rồi, mà Bổng cũng không thể theo nổi đơn vị. Nhìn cậu Bổng vừa chống gậy lê từng bước, vừa khóc. Lòng tôi quặn đau.
Nhiều lần, ngồi lại gốc cây, đợi Bổng, tôi cố kìm, giấu đi những giọt nước mắt để Bổng vui lên... Y tá của tiểu đoàn đã bó tay, còn tôi suy nghĩ, dằn vặt khi nghĩ đến ống thuốc "Stovarsol" ở trong túi. Chắc chắn, nếu đưa cho Bổng uống, Bổng sẽ khỏi. Nhưng nếu... đến lượt mình mắc bệnh thì sẽ ra sao? Nghĩ lại lần bản thân bị đi kiết mà rùng mình. Cuối cùng tình thương và trách nhiệm của người chính trị viên đã thôi thúc tôi giao tất cả ống "Stovarsol" cho Bổng. Nhìn Bổng tay cầm ống thuốc lại khóc, tôi thấy mũi mình cay cay... Không biết có phải do tác dụng đặc trị của thuốc hay còn tác nhân nào khác, mà sau có 1 đêm, bệnh đã lui. Sáng hôm sau lại hành quân, gặp tôi Bổng nói: "Em nhớ ơn anh". Trông người Bổng tỉnh táo, nhất là từ bản Tấu vượt cầu treo Thanh Thủy, sang đất bạn, nhìn Bổng đi vững vàng, trong lòng tôi dấy lên một cảm xúc khó tả...
Ác thay tôi lại bị đi lỏng nặng. Chiều hôm vượt biên giới, trên đường hành quân đến bản Giao Chí Thành, chân tay tôi bủn rủn...
Tất cả đi ăn cơm, tôi nằm ở nhà. Bà cụ chủ nhà, người Trung Quốc đến bên, nói những gì, nhiều lắm. Tôi chẳng hiểu gì cả, vì vốn liếng ngoại ngữ của tôi chỉ vẻn vẹn có hai từ: Hảo (tốt) và Pú hảo (không tốt) thôi. Bà cụ cứ nói, tôi cứ như anh điếc, mặt nhăn nhó, chỉ tay vào bụng, mồm thì liên tục: Pú hảo, Pú hảo... Chắc bà cụ thấy cái cảnh tôi "ôm quần" chạy suốt cả buổi chiều rồi chăng, nên cụ đến an ủi, tôi nghĩ như thế. Thấy bà cụ cười hiền từ rồi bỏ đi, lát sau mang đến đưa cho tôi: một nắm lá. Nhìn nắm lá tôi buột miệng kêu lên: "Ôi lá mơ lông". Tay nhận lá mơ lông miệng rối rít: Hảo, Hảo... khổ quá, nào tôi có biết nói gì hơn từ "Hảo" đâu. Bà cụ cười đi ra, còn tôi nhai ngấu nghiến mơ lông, nuốt cả bã. Lát sau bà cụ lại vào đưa cho tôi bát nước nóng, bà nói rất dài, có từ "khai sủi". Tôi nghĩ đã là thuốc, "khai" hay "thơm" uống tất, miễn là khỏi... Thế là đỡ lấy bát nước tôi uống một hơi cạn (sau mới biết khai sui là nước nóng).
Tôi liên tưởng đến lời nói của bà nội tôi, khi tôi còn nhỏ: "Cháu ơi, ở hiền thì gặp lành", có phải tôi đã gặp lành không? Đêm đó hết đi lỏng. Sáng hôm sau hành quân, bà cụ người Trung Quốc, lần đầu tiên trong đời tôi gặp trên đất Bạn, chạy theo dúi vào tay tôi một nắm lá mơ lông và nói: "Nị hảo". Rồi bà cứ đứng đó nhìn theo, vẫy tay.
Câu chuyện này, tôi hay kể cho học viên nghe. Khi tôi rời tiểu đoàn tới học bổ túc Trung sơ cấp Quân sự, đây là lớp đầu tiên trên đất bạn. Lớp học ở bên Hồ Dương Trung Hải, Côn Minh, Vân Nam. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trung sơ là anh Đàm Quang Trung. Chính trị viên là Đàm Quang Thìn, nay anh Thìn là Thiếu tướng đã nghỉ hưu ở Hà Nội. (Anh Đàm Quang Trung đã mất). Một hôm sau buổi tập, tôi kể lại cho anh Lưỡng Nghi, học viên cùng tiểu đội câu chuyện về bà cụ người Trung Quốc ấy, anh Lưỡng Nghi nói: "Nhân dân Việt Nam, cũng như Trung Quốc, rất yêu thương chúng ta, vì chúng ta là con em của dân, chiến đấu vì sự nghiệp của dân". Tôi rất quý Lưỡng Nghi vì anh là người có kinh nghiệm hơn tôi, đã từng chiến đấu ở chiến khu Cao - Bắc - Lạng, từ đầu năm 1945. Tôi hỏi: Cậu biết tiếng Quan Hỏa, cậu nói xem, bà cụ vẫy tay nói: "Nị Hảo" là ý gì.
- Nị là Mày, Hảo là Tốt, ý cụ nói mày đi cho tốt nhé.
- Có lẽ không phải. Theo mình bà cụ nói "Con ơi! con đi cho mạnh giỏi nhé!".
- Cậu nói xem những từ nào là con đi cho mạnh giỏi?
Tôi đớ người ra, nhưng vẫn giữ ý của mình. Tôi nói: Một người con, nghe lời mẹ nói, bằng chính trái tim mình. Còn người mẹ nói tuy ít, nhưng bằng cả tấm lòng. Cậu thử xem, lúc bà cụ vẫy tay, mình ngoái lại rồi nắm hai tay giơ cao. Lúc đó mình nghĩ trong đầu: Mẹ ơi! Mẹ ở lại khỏe mạnh. Có dịp con sẽ về thăm mẹ. Mình tin là bà cụ hiểu như thế. Lưỡng Nghi cười.
Tôi không bao giờ có dịp gặp lại bà cụ, song hơn 20 năm sau, tôi đã gặp lại Bổng trong chiến dịch Đường 9 - Nam Lào. Anh Bổng là Chủ nhiệm chính trị Sư Đoàn 320. Sau chiến dịch, tôi ghé thăm gia đình anh ở Hà Nội. Lần đó, anh giới thiệu tôi với vợ anh: "Đây là ân nhân đã cứu sống anh".
~*~
Sau những ngày đêm vượt đèo, lội suối, chúng tôi đến Ma - Li - Phố, thị trấn đầu tiên ở Trung Quốc. Từ Ma - Li - Phố đi tàu hỏa tới Khai Viễn. Để giữ bí mật, trên quy định: Chúng ta mang danh Quân giải phóng người Quảng Đông. Không biết tiếng Quan Hỏa, vì thế ai hỏi chỉ được lắc đầu, trả lời: "Pu Tủng" (Không hiểu). Chính cái "Pu Tủng" mà tôi sắp kể đây đã reo một ấn tượng khó quên, suốt cả đời tôi.
Trên tàu hỏa, lính ta khoái trí, thôi thì tuôn ra đủ thứ chuyện. Thấy một bác công nhân hỏa xa người Trung Quốc đi tới, tôi nhắc anh em giữ bí mật. Bác công nhân cứ đi đi lại lại, rồi bỗng nhiên đi thẳng tới chỗ tôi ngồi nói bằng tiếng Pháp "vous Tonkinois" (Các anh người Bắc Kỳ à). Tôi giật bắn người, không phải vì bác công nhân nói tiếng Pháp, mà vì nội dung của câu nói đó. Tôi nghĩ thầm: Chết rồi, lộ bí mật hết. Mặc dầu trình độ tiếng Pháp của tôi, không hơn gì trình độ tiếng Trung Quốc, song cũng bật ra câu trả lời: "Non monsleur, nous sommes des soldats du Régiment de Quang Tung". (Không phải đâu thưa ông, chúng tôi là lính thuộc Trung đoàn Quảng Đông). Bác công nhân hình như cảm thấy không nên hỏi như thế, nên có vẻ lúng túng. Nói khẽ: Je sais, Je sais (Tôi hiểu, tôi hiểu). Rồi bác lại cần mẫn, quấn quanh ở các toa tàu có chúng tôi, lúc thì khép cửa, lúc thì nhặt vụn rác ở dưới sàn toa.
Tôi thì rất phấn khởi, vì đã giữ được bí mật. Đến Khai Viễn nghỉ lại vài ngày. Hàng ngày tôi đều được các đại đội báo cáo: Có một phụ nữ trạc 30 - 40, nói tiếng Việt khá thạo, cứ lân la đến chỗ học viên hỏi: Có phải quân ta ở Việt Nam thua to, chạy sang đây không. Có lần vừa hỏi vừa khóc. Tôi chỉ nhắc các đơn vị, phải cảnh giác!
Một hôm, chính người phụ nữ đó, sộc vào nhà tôi đang ở và hỏi thẳng: ˆ
- Em ơi! Em hãy tin chị, đừng giấu chị.
Tôi hoảng quá, chưa hiểu ra sao, và cũng chưa biết nên xử trí ra sao, nên lặng thinh.
Người phụ nữ kể tiếp, chị biết các em là lính của Cụ Hồ ở Việt Nam sang. Không cần biết tôi có nghe hay không, chị tiếp tục kể lể như bộc lộ lòng mình.
- Bố chị là người Việt Nam sang đây từ ngày làm con đường Yên Bái - Vân Nam. Sau đó ông ở lại lấy vợ người Trung Quốc, đó là mẹ chị. Chị mang hai dòng máu: Việt Nam và Trung Hoa. Chồng chị là người Trung Quốc làm công nhân hỏa xa, chính là người nói chuyện với em bằng tiếng Pháp ở trên tàu hỏa ấy. Anh ấy nghe tiếng Việt lõm bõm, lo lắng lắm, về nói với chị, có lẽ quân Cụ Hồ thua trận, chạy dạt sang đây... Chị lo quá, đêm nào cũng khóc, mà hỏi các em, ai cũng chỉ "Pu Tủng". Chị vừa buồn, vừa tủi thân vì các em không tin chị. Bà con công nhân người Trung Quốc cũng bàn tán lo lắng lắm. Chính chồng chị, dò tìm mãi mới biết chỗ ở của em. Anh ấy đoán em là chỉ huy, nên chỉ cho chị đến để hỏi đấy. Em nói thật đi. Quân ta thua to lắm phải không? Pháp nó chiếm mất nước ta rồi à? Nói xong chị phụ nữ ôm mặt khóc...
Tôi cảm nhận thấy tấm lòng yêu nước của người phụ nữ Trung Quốc gốc Việt ấy. Tôi thấy bối rối quá. Giải thích cho chị nhưng yêu cầu bí mật thì sao? Tôi quyết định phải giải thích cho chị, gia đình chị và bà con ở Khai Viễn yên lòng. Tôi sẽ chịu trách nhiệm về việc mình làm.
Tôi nói: Thưa chị, đúng chúng em là lính Cụ Hồ, nhưng không phải thua trận chạy sang đâu, rồi phân tích tình hình thắng lợi, nhưng không nói gì về nhà trường cả. Còn lý do sang Trung Quốc tôi chỉ nói: Chúng em là một bộ phận nhỏ thôi, sang đây để học tập thêm kinh nghiệm của Quân giải phóng Trung Quốc, sẽ trở về tiếp tục chiến đấu cho đến thắng lợi hoàn toàn.
Chị phụ nữ đã lau nước mắt, nhìn thẳng vào tôi hỏi: Có thật thế không em?
- Chị hãy tin em. Lính Cụ Hồ là lính của dân, không bao giờ nói dối nhân dân đâu.
Chị phụ nữ tươi tắn trở lại, chào và ra về, tôi nói theo chị: Chị nói với anh cho chúng em cảm ơn anh, đã chăm lo, giúp đỡ chúng em trên tàu hỏa. Cám ơn bà con công nhân Khai Viễn đã quan tâm đến đất nước Việt Nam chúng ta.
Sau khi về nước, tôi tiếp tục đi trên con đường dài đánh giặc cho tới ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Trên năm mươi năm đã trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ câu chuyện trên đường hành quân ấy, như nó vừa mới diễn ra. Tôi cảm nhận rằng, những kỷ niệm ấy, ngày càng đậm nét hơn.
Tôi nghĩ, ta có thể bịt tai, che mắt kẻ thù, song không thể che mắt, bịt tai được nhân dân. Phải thực sự tin và dựa vào dân, sức mạnh mang lại mọi thắng lợi cho cách mạng chính là: LÒNG DÂN.