(Nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/ 12/1944 - 22/12/2004)


Khoảng tháng 3 năm 1947 sau khi điều trị, vết thương tạm ổn nhưng đi lại còn đau, vết thương thỉnh thoảng lại sưng tấy.

Trước tình hình khó khăn ấy, anh Nguyễn Cổn, người đại đội trưởng Vệ quốc cụt bàn tay phải khuyên tôi: Thôi, chú Xuân hãy cùng anh đi theo quân y để làm công tác chính trị. Các cô y tá đều tán thành ý anh Cổn. Cũng thời gian này, quân Pháp mở cuộc hành quân quy mô lớn, chúng sử dụng "Một đoàn bộ binh cơ giới từ Hà Đông đánh xuống Vân Đình" cùng lúc "Hai tiểu đoàn bộ binh và một đoàn tàu chiến xuôi theo sông Hồng đổ vào Phủ Lý, đánh lên Chi Nê rồi tiến về Vân Đình" (Võ Nguyên Giáp - chiến đấu trong vòng vây - NXB QĐND - Thanh niên 1995 - trang 104).

Quân y viện phải gấp rút di chuyển, thế là tôi theo bệnh viện chuyển quân, rời xã Đốc Tín, nơi nhân dân đã nhường những gian nhà tốt nhất - cả nơi linh thiêng nhất là ngôi đình cho chúng tôi nằm điều trị...

Lần chuyển quân ấy có một câu chuyện làm tôi suy nghĩ mãi, đó là cô em út kết nghĩa - cô y tá Hà Thanh An lúc đó mới 16 tuổi. Đêm chuyển quân được phân công ở lại trông nom một tử sĩ mới chuyển từ mặt trận về. Cô Thanh An kể lại ở Hà Nội chưa bao giờ em dám nhìn người chết, em cứ nghĩ đến các câu chuyện "Quỷ nhập tràng" khi nhỏ đi học, bạn bè kể rất sợ... Thế mà đêm ấy, ngồi một mình, gần tử sĩ, đầu ngực quấn băng trắng toát, ngọn đèn dầu cứ bập bà, bập bùng, em sợ lắm, nhưng lại nghĩ, tử sĩ kia cũng là thanh niên như các anh, em lại thương, chảy nước mắt và cố gắng trông được hết đêm ấy... em chỉ sợ nhất là chuột đồng nó vào cắn anh ấy.

Tôi rất xúc động, phải chăng lòng yêu nước, căm thù giặc cộng với tình thương đồng đội đã làm cho một cô nữ sinh 16 tuổi đầu, trước đó chưa bao giờ ra khỏi Thành phố Hà Nội, biết bao sự sợ hãi: nào là sợ chuột, sợ gián, sợ ma - quỷ nhập tràng đã trở thành một cô y tá can đảm một mình ngồi canh tử sĩ suốt đêm. Thật là thần kỳ một ý chí, một tấm lòng yêu nước đã biến cô con gái Hà Nội từ nhút nhát trở thành can đảm, phi thường...

Quân y viện đã chuyển đến một xã thuộc huyện Bất Bạt, Sơn Tây. Trong một lần gặp gõ thương binh tôi đã được tin đại đội cũ của tôi đang chiến đấu ở mặt trận Cầu Phùng. Lúc đó tôi cũng chưa biết Cầu Phùng là chỗ nào, nhưng tôi quyết định xin ra viện đi tìm đơn vị.

Buổi chia tay thật bịn rịn, các anh, chị em kết nghĩa họp mặt, các cô em gái lấy trong đáy ba lô bộ quần áo dài mang theo từ Hà Nội ra mặc, chúng tôi đi chụp ảnh lưu niệm. (Tấm ảnh này gần 60 năm sau tôi mới nhận được).

Ngày rời Quân y viện, trở lại đơn vị chiến đấu. Bốn nữ quân nhân mặc áo dài là các nữ sinh Hà Nội, tòng quân làm y tá.
Người đứng giữa là Đào Văn Xuân. Ba thanh niên (ngồi) là thương binh.

Ảnh chụp tháng 3 năm 1947
Từ trái qua phải: Chị Vượng, y tá Châu, Đào Văn Xuân, y tá Hải, Hà Thanh An (16 tuổi)
Hàng ngồi: Tước, chú Vinh (15 tuổi), Dong

Trên đường đi tìm đơn vị, tôi chẳng có một thứ gì đảm bảo ngoài bộ quần áo và chiếc mũ ca lô có đính ngôi sao vàng "Vệ quốc quân".

Một chiều, tôi ghé vào một nhà tranh lụp sụp ở rìa một làng, xin nghỉ nhờ. Nhà nghèo quá, chỉ có hai gian, một gian nhỏ kê một cái giường, gian bên là bếp. Chủ nhà là một phụ nữ tuổi trạc 40, và cô con gái 13-14. Gia đình nhận lời ngay. Có lẽ nhìn bộ mặt, dáng điệu chân thật của tôi, hơn nữa trên mũ lại có ngôi sao vàng nên bà tin, tôi đoán thế.

Ngồi nói chuyện một lúc, Bà hỏi tôi về chuyện nhà, tôi thành thật kể lại, hoàn cảnh nhà mình, ngày Toàn quốc kháng chiến nay lưu lạc nơi đâu hay là chết vì bom đạn, tôi không rõ, còn bản thân bị đạn gẫy chân, nay khỏi đi tìm đơn vị...

Tôi thấy cô con gái gục đầu vào vai mẹ, hai vai rung lên, cô khóc; Tôi không hiểu vì sao cô ấy khóc...

Tôi xin bà cho mượn cái nồi nhỏ nấu cơm ăn, tôi thấy bà bảo cô con gái: Con đi nấu cơm hộ anh và ra hái mấy ngọn rau lang luộc...

Cô con gái lấy tay quệt nước mắt chuẩn bị nấu cơm, tôi đưa cô túi gạo chỉ còn độ một vốc tay... Tôi ngồi lại nhìn gian nhà. Tôi không thể tưởng tượng nổi sao hai mẹ con bà lại nghèo đến thế. Nhà chỉ có một giường đóng bằng tre, góc nhà một cái bồ bằng cót nhỏ, trên là một cái thúng, trên tường là một dây thừng treo vài cái quần áo cũ kỹ, bạc phếch...

Gia đình tôi ở Hà Nội, một gia đình công nhân đã là loại nghèo như người ta thường nói: "Nghèo xác sơ mướp", nhưng còn có giường gỗ, có tủ, có bàn ghế, còn nhà hai mẹ con bà chủ nhà đây thì nghèo quá sức tưởng tượng của tôi...

Tôi sang gian bếp xem cơm chín chưa để ăn rồi đi tiếp... Tôi thấy cô gái gục đầu vào vai mẹ khúc khích cười, còn bà mẹ xoa đầu con nói: "Con gái mẹ ngoan lắm", rồi bà nhìn tôi cười và nói: Nó thấy túi của anh còn ít gạo quá, nó vét thêm gạo cả nhà được một ít bỏ vào nấu để anh ăn cho no.

Tâm trạng tôi lúc đó vừa vui vừa buồn. Vui vì mình là "anh Vệ quốc" được dân yêu thương, sẵn sàng giúp đỡ. Buồn vì nhà còn ít gạo lại phải "vét" mới đủ thêm một nắm nấu cho mình ăn...

Rời túp nhà tranh của hai mẹ con bà ra đi, lòng tôi thấy ấm áp vì thấy Vệ quốc quân ở đâu cũng được dân đùm bọc, song tôi lại day dứt trong lòng câu hỏi: Sao dân ta nghèo đến thế.

Tôi không bao giờ có dịp gặp lại hai mẹ con người nông dân nghèo về vật chất nhưng lại rất giàu lòng vị tha và yêu nước ấy.

Tôi chợt nghĩ đến câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày tôi đứng gác ở chân Kỳ đài ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945 "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập". Đúng, tiếng súng quân xâm lược Pháp đang nổ khắp nơi, chỉ có con đường ấy mới thoát cảnh nghèo khổ.

Lòng phấn chấn, tôi sải chân bước trên đường đi tìm đơn vị. Tới đầu thị xã Sơn Tây, gặp mấy chiến sĩ vệ quốc quân, tôi hỏi thăm, không ngờ các bạn trả lời: "Ông vào quán nước trên đường, rồi các anh chỉ tay vào quán nói: Anh Lê Quân trung đoàn trưởng, vừa đi qua còn ngồi đó...".

Thật không ngờ, tôi muốn reo lên, vì anh Lê Quân chính là chi đội trưởng Giải phóng quân Hà Nội chúng tôi, từ ngày cả chi đội lên đường Tây Tiến tôi không gặp anh, hơn nữa anh Lê Quân còn là tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 145 mà Đại đội 134 chúng tôi đến phối thuộc đánh trận Giảng Võ đầu tháng 1 năm 1947, trận ấy tôi bị thương....

Tôi chạy xộc vào quán, anh Lê Quân ngạc nhiên hỏi tôi: Cậu Xuân đấy à? Đi đâu thế... Tôi nói vắn tắt: Tôi bị thương nay khỏi, đang tìm đơn vị...

Anh Lê Quân chào chủ quán, rồi ôm vai tôi bảo: Thôi về Trung đoàn bộ với mình đã... Tôi đi theo anh, lòng tràn ngập niềm vui. Về Trung đoàn bộ, tôi ở tạm Ban chính trị trung đoàn, Trưởng ban chính trị là anh Vĩnh, năm 1946 anh cũng là một Chính trị viên Trung đội trong Tiểu đoàn - hóa ra lại gặp bạn chiến đấu cũ... Một hôm anh Lê Quân cho tôi biết, anh Lê Chiêu đã được tin tôi bị thương và đã về tới Trung đoàn, Ôi! Lại một tin vui. Lê Chiêu là người trực tiếp lãnh đạo tôi hồi hoạt động bí mật ở thành Hà Nội, trước tháng 8 năm 1945 anh chỉ huy chúng tôi đánh chiếm Phủ Khâm sai ngày Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội. Và chính anh là người đã đề nghị điều động tôi về Tiểu đoàn 56 với anh khi cả chi đội Giải phóng quân Hà Nội Tây Tiến. Quan trọng hơn cả anh là người giới thiệu tôi vào Đảng Cộng sản Đông Dương... Lúc đó, anh Lê Chiêu là phái viên kiểm tra ở Chiến khu II, (làm người chuyên làm công tác Đảng). Thế là từ ngày bị thương, sau ba tháng hoàn toàn mất liên lạc nay ngẫu nhiên liên lạc được chắp nối... Khoảng tháng 4 năm 1947, tôi được quyết định về nhận nhiệm vụ Chính trị viên Đại đội 134, về Đảng là Bí thư chi bộ.

~*~

Từ khi tôi bị thương và cả thời gian nằm điều trị, tình hình chiến đấu của quân và dân ta ở Hà Nội vẫn giữ vững, tiến triển tốt. Ở Liên khu I vẫn trụ vững. Đặc biệt các chiến sĩ Vệ quốc quân thuộc Tiểu đoàn 101, sát cánh cùng lực lượng tự vệ Hà Nội, đã đánh một trận rất xuất sắc ở chợ Đồng Xuân ngày 11 tháng 2 năm 1947. Mặc dù địch có xe tăng và sử dụng cả máy bay ném bom, địch đã tràn được vào chợ nhưng các chiến sĩ của ta đã dùng dao găm, dao thái thịt đánh giáp lá cà với những tên "lê dương" hung hãn, sau từng quầy hàng, góc chợ, nhiều cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 101 đã anh dũng hi sinh. Trận chiến đấu bảo vệ chợ Đồng Xuân là một trong những trận đánh lớn nhất và ác liệt nhất ở Thủ đô ngày đầu Toàn quốc kháng chiến.

Tôi về nhận nhiệm vụ ở Đại đội 134 thì cục diện chiến đấu đã khác rất nhiều. Trung đoàn Thủ đô từ Liên khu I đã rút ra ngoài đêm 17 tháng 2 năm 1947. Quân Pháp đã đánh chiếm nhiều vùng ngoại thành Hà Nội, mở rộng phạm vi chiếm đóng.

Một nét diễn biến mới xuất hiện là "Từ trung tuần tháng 2 bắt đầu xuất hiện một hiện tượng mới: Vỡ mặt trận. Sau khi mặt trận Huế vỡ, tiếp đến mặt trận Sơn La... Ở mặt trận Đông Bắc, Trung đoàn Tiên Yên cũng phải rời bỏ miền đất biên giới tỉnh Hải Ninh, lui về tới Bắc Giang" (Sđd - trang 91).

Về địch lúc này "Quân Pháp không những có vũ khí trang bị rất mạnh, mà lại thành thạo trong cách dùng binh...", "Chiến thuật chủ yếu của Pháp trong thời gian qua là đánh vận động bằng xe cơ giới"... "thường thì dùng bộ binh, xe tăng, xe cơ giới, có máy bay và pháo yểm trợ đánh ở chính diện, rồi bất thình lình dùng xe lội nước hoặc ca nô bọc thép đổ quân và sau lưng hoặc sườn, từ hai mặt dồn quân ta vào giữa".

Khoảng tháng 4 năm 1947, quân Pháp tập trung lực lượng càn quét rất ác liệt 4 huyện phía Nam tỉnh Bắc Ninh. Trong những trận đánh ở nam phần Bắc Ninh đã xuất hiện một hiện tượng đặc biệt: Trung đoàn Vệ quốc, lúc đó là Trung đoàn Bắc - Bắc bị đánh bật khỏi địa bàn nhưng có một đại đội độc lập của tỉnh vẫn trụ lại được và tiếp tục chiến đấu ngay trong vùng địch tạm chiếm. Từ sự kiện trên đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát hiện ra một phương hướng hoạt động mới: "Đưa một bộ phận chủ lực phân tán thành đại đội về các địa phương để phát động chiến tranh du kích. Bộ đội chủ lực chỉ tập trung ở quy mô tiểu đoàn, do đó công thức: "Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung" ra đời.

Phương hướng đó được Bác Hồ và Tổng Bí thư Đảng Trường Chinh tán thành, sau này Đại tướng Võ Nguyên Giáp có viết lại sự kiện này: "Bác chăm chú nghe rồi nói ngay: Phân tán một bộ phận chủ lực để phát động chiến tranh du kích là rất cần không phải chỉ đưa đại đội vào địch hậu mà đưa cả về những địa phương nay mai chiến sự sẽ lan tới..." còn Tổng Bí thư Trường Chinh thì cho ý kiến: "... từ Khu 4 trở ra có thể đưa một phần ba bộ đội chủ lực phân tán thành các đại đội độc lập về các địa phương làm nhiệm vụ phát động chiến tranh du kích..." (Sđd - trang 159-160).

~*~

Tiểu đoàn chúng tôi đóng quân ở Sơn Tây có ba đại đội: 134, 385 và 264, cả ba đại đội đã được phân tán thành các đại đội độc lập.

Đại đội 134 phụ trách mặt trận Cầu Phùng - Bên tả ngạn sông Đáy, bên kia Cầu Phùng là bốt của quân Pháp, bên hữu ngạn sông Đáy là các làng thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây. Nhiệm vụ chính của đại đội là cùng địa phương tổ chức, huấn luyện các đơn vị du kích địa phương huyện Phúc Thọ. Vì vậy, tôi được Tỉnh ủy Sơn Tây chỉ định tham gia vào huyện ủy Phúc Thọ. Đại đội 385 tham gia chiến đấu và xây dựng lực lượng dân quân thuộc huyện Quốc Oai, còn Đại đội 264 phụ trách huyện Quảng Oai.

Ban chỉ huy tiểu đoàn, thành bộ phận "đốc chiến mà không trực tiếp chỉ huy như Ban chỉ huy tiểu đoàn tập trung". Nhiệm vụ của Đại đội 134 chúng tôi rất nặng nề, còn tôi mới ở tuổi 19 lại chưa học một lớp quân sự nào dù chỉ "dăm bữa, nửa tháng". Thật là quá sức, nhưng những ngày đầu chiến tranh cũng không còn cách nào khác, cũng không phải riêng tôi mà từ trên xuống dưới có ai được học tập gì đâu. Việc cách mạng và vận mệnh của dân tộc đòi hỏi phải gánh vác, nên chỉ còn có một cách là vừa lao vào làm việc, chiến đấu, thiếu sót vấp váp là điều khó tránh khỏi nhưng qua thực tiễn sẽ học tập và trưởng thành. Tôi tự hứa với mình như vậy.

Đại đội có ba trung đội bố trí phân tán ra các khu vực: một trung đội nằm sát ven hữu ngạn sông Đáy, trung đội phân tán các tiểu đội ở mấy làng: Ngọc Tảo, Thượng Hiệp, Hạ Hiệp, đối diện với bốt Phùng, vừa đánh địch ở bốt Phùng càn sang, vừa dìu đắt các đội du kích bám sát địch và chiến đấu. Một trung đội bố trí quân ở các làng phía sau: Phùng Thượng, Thư Trai (phố Gạch) cùng địa phương làm làng chiến đấu và xây dựng phong trào dân quân, du kích và hỗ trợ khu vực Ngọc Tảo khi cần. Một trung đội cùng với trung đội võ trang tuyên truyền của tiểu đoàn luồn sâu vào vùng sau lưng địch ở huyện Hoài Đức tỉnh Hà Đông để xây dựng cơ sở và diệt tề, trừ gian.

Do nhiệm vụ nên phải bố trí phân tán như vậy nên đại đội không thể có trận đánh cấp đại đội mà chỉ hoạt động du kích và đánh địch nhỏ khi chúng tràn qua cầu Phùng càn quét...

Với trách nhiệm một Huyện ủy viên, tôi dành thời gian đi một số xã trọng điểm để kiểm tra tình hình rào làng chiến đấu và gặp các đội du kích. Tôi phát hiện ra một thực tế là không phải làng nào cũng có thể trở thành làng chiến đấu thực sự có ý nghĩa, tuy làng Việt Nam nào cũng có lũy tre, song không ít những lũy tre thưa, lại nhiều ngõ ngách, có thể ra vào làng dễ dàng, do đó, các đội du kích, dân quân hợp sức lại rào những làng có lũy tre dày đặc, các cổng ra vào làm những cánh cửa bằng tre vững chắc hàng ngày nâng lên, đêm hạ xuống được chốt chặt, phía trong lũy tre có hố chiến đấu...

Từng khu vực có những làng chiến đấu mạnh, khi cần cả bộ đội lẫn dân quân, du kích, có thể lui về cố thủ, cầm cự với giặc Pháp, nếu chúng tràn tới...

Vào khoảng gần cuối năm 1947 đã xảy ra một trận đánh, quân Pháp ở bốt Cầu Phùng, được tăng viện tràn qua cầu Phùng càn vào làng Thượng Hiệp, nơi này có hai tiểu đội của đơn vị trú quân. Bộ đội và dân quân đánh trả quyết liệt. Lúc đó Ban chỉ huy đại đội chỉ có tôi ở nhà, Đại đội bộ và một trung đội sang trú quân ở làng Phùng Thượng, cách Thượng Hiệp gần 2 kilômet tôi phái một tổ đi xem xét tình hình. Nghe tiếng súng nổ dồn dập, sau đó thưa dần...

Tôi lo lắng, bồn chồn, nhưng tin rằng quân Pháp ở bốt Cầu Phùng tràn sang, chắc như mọi lần, sau khi bị đánh trả quyết liệt chúng lại rút... Ngày đó không có cả điện thoại, còn máy bộ đàm chúng tôi chưa hề được nghe đến, do đó cách duy nhất là liên lạc chạy chân...

Khi tiếng súng đã im, tổ trinh sát về báo cáo: lần này quân Pháp càn sang lực lượng đông, chúng từ nhiều mũi đánh vào làng, anh em ta gần hết đạn phải rút nhiều hướng. Một bộ phận Vệ quốc cùng dân quân do trung đội trưởng chỉ huy rút sang làng bên. Một tiểu đội do chính trị viên trung đội rút ra cánh đồng sau làng, bị lực lượng Pháp vây phía sau đuổi. Anh em ta nằm lại các bờ ruộng bắn chặn. Tên chỉ huy Pháp hô lớn: "Ô! Mút-xcơ-tông, Ne pa pơ! A-lát-xô" (Súng mút-xcơ tông không sợ, xông lên)! Bọn Âu Phi da đen, mồm ngậm ngang dao găm, xách súng lao lên như những con sói.

Quân ta phải tháo lui, một số bị bắn chết. Chính trị viên trung đội chạy vấp ngã, chúng chạy đến dí súng vào đầu bắn...

Tôi cùng tổ trinh sát xuống tới nơi, nhìn đồng đội mà đau lòng nhất là anh chính trị viên trung đội, người Đảng viên Cộng sản trẻ tuổi ấy, đã hy sinh trong tư thế như đang cố vùng dậy tay còn nắm chặt con dao găm (súng bị chúng lấy mất) đầu bị nhiều vết đạn...

Sau khi trao đổi, rút kinh nghiệm, qua trận ấy, chúng tôi thấy không thể cố thủ trong làng, nhất là trong làng hầu hết là nhà tranh, ít nhà ngói, đạn dược lại thiếu thốn...

Chúng tôi tìm ra một hướng: ngoài lũy tre và hố chiến đấu, cần có các đoạn hào ngắn để chi viện lẫn nhau và di chuyển, phải tận dụng cụm nhà gạch liền kề để tổ chức các ổ đề kháng, và phải đào hầm bí mật để rút khi địch quá đông tràn vào làng... Thế là thêm phương án cụ thể để thực hiện phương châm "Du kích vận động chiến" của Bộ Tổng tham mưu đề ra.

Phương hướng này, tỏ ra có hiệu quả.

Một lần khác địch từ Cầu Phùng, càn lên xã Ngọc Tảo - cách Cầu Phùng độ 2 kilômet. Một tiểu đội - do tiểu đội trưởng tên là Sơn chỉ huy, đã cùng dân quân đánh trả quyết liệt. Thấy địch quá mạnh, Sơn cho dân quân rút, còn tiểu đội Vệ quốc trụ lại. Kẻ địch vào làng cả đội của anh đã rút xuống hầm bí mật. Quân Pháp đã đốt nhà, nhưng cả tiểu đội an toàn.

Quá trình làm nhiệm vụ đại đội độc lập đứng chân trên chiến tuyến Cầu Phùng, qua nhiều trận Đại đội 134 chúng tôi trưởng thành thêm, mà nhân dân và lực lượng bán vũ trang huyện Phúc Thọ cũng có những kinh nghiệm xây dựng làng chiến đấu và tổ chức đánh trả khi quân địch càn quét.

Đi đôi với việc rào làng chiến đấu, phong trào xóa nạn "mù chữ" cùng phát triển tốt. Đi đến đâu, cũng thấy khẩu hiệu "diệt giặc dốt, diệt giặc đói", các góc chợ, tưởng nhà đều vẽ những chữ "a", chữ "o"... Trong đại đội chúng tôi, ngày đó rất nhiều chiến sỹ mới gia nhập từ các vùng nông thôn. Anh em hầu hết là lớp nghèo. Tôi nhớ một lần, đồng chí trung đội trưởng tên là Mót, anh là một cựu binh sĩ, nhưng là một người không những ý chí chiến đấu vững vàng, mà còn có lòng nhân hậu đáng quý... Hôm đó anh đến báo cáo với tôi, trung đội hành quân qua chợ Sơn Đông (ở Sơn Tây) có một chú bé, mặc rách, còm cõi, đang gánh củi đi bán, chú ấy vứt gánh củi lại bên đường cứ lẵng nhẵng chạy theo xin vào Vệ quốc quân. Đồng chí trung đội trưởng nói tiếp, tôi thấy thương quá, nên nhận, hỏi thì chú ấy nói bố mẹ chết hết cả, muốn xin vào Vệ quốc đi đánh giặc.

Tôi đã gặp chú bé ấy, tuổi 15. Hỏi chuyện tôi được biết vì sợ không được đi bộ đội nên chú ấy đã nói dối. Thật ra thì bố đã mất dịp đói năm 1945, hiện còn mẹ... Tôi đã yêu cầu, trung đội trưởng Mót dẫn chú ấy về gặp mẹ, để xin phép.

Anh Mót kể hôm dẫn chú ấy về gặp mẹ rất cảm động: Hai mẹ con ôm nhau khóc, bà mẹ ấy chỉ dặn con: "Hãy đi đánh giặc cho bằng anh, bằng em, ở nhà khổ mấy mẹ cũng chịu được!".

Thế đấy những bà mẹ Việt Nam là những nguồn cảm xúc lớn lao, vô tận, thúc giục những người con lên đường giết giặc...

Đơn vị chúng tôi thêm nhiều chiến sĩ mới chưa biết chữ, nên đại đội cũng phải tổ chức xóa mù chữ cho anh em...

Đêm đêm trong lòng rạo rực niềm vui khi nghe tiếng học: "i, tờ có móc cả hai, i ngắn có chấm, tờ dài có ngang" và "o tròn như quả trứng gà, ô thì đội mũ, ơ thì thêm râu"...

Qua những việc làm của một đại đội độc lập và phong trào của nhân dân tôi hiểu sâu sắc thêm thế nào là "Toàn dân kháng chiến" và "Toàn diện kháng chiến".

Cuối năm 1948 tôi và anh Văn Tân phái viên kiểm tra của tiểu đoàn, được cử lên Việt Bắc học bổ túc quân sự.

Từ ấy con đường chinh chiến của tôi bước sang trang mới.

Hà Nội tháng 3-2004