Tổ tự vệ chiến đấu do tôi phụ trách chính thức hình thành từ tháng 10 năm 1944. Lúc đầu tổ chức có 3 người: Tôi, anh Vũ Tất Bính và Nguyễn Vân. Tôi và anh Bính làm thợ điện ô tô trong xưởng sửa chữa súng pháo của Pháp (ở trong thành), còn anh Vân làm thợ trong một xưởng của Nhật ở Lò Lợn (cuối phố Lò Đúc ngày nay). Hoạt động chủ yếu lúc đầu là điều tra tình hình địch canh gác ở trong thành, chuẩn bị vũ khí rải truyền đơn và "tán phát" báo Cứu quốc, báo Kèn gọi lính (tên một tờ báo binh vận của ta)... Đến đầu năm 1945, trước đảo chính 9-3 đã tổ chức thêm tổ thứ 2 gồm 2 học sinh trung học là anh Đức và Triều nhà ở phố Hàng Giấy và đại lộ Các-nô (Phan Đình Phùng ngày nay). Tôi trực tiếp làm tổ trưởng tổ học sinh nhiệm vụ vẫn hoạt động bí mật như trên và phát triển thêm tổ viên, đồng thời chuẩn bị vũ khí...
Tháng 2 năm 1945, tôi giao cho anh Đức khẩu hiệu kêu gọi "ủng hộ Việt Minh" để anh Đức giao cho một bạn "cảm tình" đi đán. Anh này ở làng Ngũ Xã. Thực chất để xem, nếu tốt, dũng cảm thì kết nạp vào tổ chức chiến đấu của anh Đức cho đủ 3 người. Hai ngày sau tôi hỏi anh Đức về "người bạn mới" làm ăn ra sao. Đức trả lời "Nó liều quá, đem truyền đơn, khẩu hiệu dán ngay cửa nhà mình". Tôi lo quá bảo Đức "Sao thằng ấy ẩu thế, nếu Nhật bắt được thì chết hết". Đức trả lời: "Nó láu cá lắm, dán xong đi báo cảnh sát rằng: Việt Minh dán nhưng sợ không dám bóc... Sau đó cảnh sát phải đến bóc...".
Lúc ấy do "ấu trĩ" tôi đã đánh giá không đúng. Tôi cho là "anh chàng láu cá" ấy chưa dán, đã sợ nên đi báo cảnh sát để giữ an toàn cho mình. Hơn nữa nếu dán vào ban đêm thì thiếu gì chỗ dán mà phải dán ở cửa nhà mình. Tôi nói với Đức: Dán kiểu ấy thì có ai được đọc đâu, nên để xem thêm đã. Nhật ác lắm nếu chưa xét kỹ đã đưa vào tổ, nó làm ẩu thì bọn mình chết ráo. Sau này tôi được nghe thêm về anh Việt Minh người Ngũ Xã ấy. Có lần anh rải truyền đơn ở cổng trường Đỗ Hữu Vy, tung xong anh lẩn vào đám học sinh đang chen nhau ra về, rồi kêu toáng lên: Việt Minh rải truyền đơn các cậu ơi! Hóa ra không phải anh ấy nhát, đó là sáng kiến khi phải hoạt động trong điều kiện "nhung nhúc" cảnh binh, mật thám...
Thời gian ấy phong trào Việt Minh ở Hà Nội đã lên mạnh, song chọn vào tự vệ chiến đấu, chúng tôi vẫn rất "kỹ".
Tự vệ chiến đấu, nét hoạt động đặc trưng của nó là vũ trang, vì vậy nếu không chọn người dũng cảm và thật yêu nước tham gia thì dễ nguy hiểm cho cả tổ chức. Tới ngày nay vẫn cho rằng, hồi đó đặt vấn đề chặt chẽ như vậy là đúng: Để phát triển thêm lực lượng chúng tôi thường nhắm vào số bạn bè trong học sinh, hay công nhân đã quen biết, vì đã hiểu rõ anh em hơn.
Cùng thời gian này, tôi tìm gặp một bạn học cũ thời "tiểu học". Anh tên là Nguyễn Ngọc Diễm nhà ở phố Hồng Phúc. Ngôi nhà này ngay đầu phố quay mặt ra phố Hàng Đậu, số nhà 2. Tôi và Diễm rất thân nhau, bao giờ đi học tôi cũng đến nhà gọi Diễm cùng đi. Mẹ anh Diễm bán gạo ở chợ Đồng Xuân. Bố có nghề khâu giày đã mở cửa hiệu ở ngay ngôi nhà đó. Diễm học hơi yếu, lại ham chơi, năm 1944 đã bỏ học, ở nhà học khâu giày phụ với bố. Hai bố con vừa là thợ, vừa là chủ, cuộc sống cũng tạm đủ.
Tôi đến nhà nói chuyện với Diễm và khuyên bạn nên tham gia vào tổ chức Việt Minh với tôi. Anh Diễm bảo tôi: Nếu mày là Việt Minh thật, thì mang súng lại đây tao mới tin. Tôi trao đổi với Lê Chiêu. Anh Chiêu sẵn sàng giao súng cho tôi để có điều kiện thuyết phục Diễm. Tôi cũng rất cần Diễm vào tổ chức tự vệ chiến đấu, vì anh vừa "to con", vừa đang theo học võ "Vô vi Nam"... Tôi mang cây đàn Guitare Espagnole đến nhà Lê Chiêu, nhận súng xong, tôi vặn trùng dây đàn, cho súng vào bụng đàn, vặn dây lại như cũ. Tay ôm đàn, như một học sinh con nhà giàu đi chơi nhạc, đàng hoàng đến nhà anh Diễm.
Không rõ tâm trạng Diễm lúc nhìn khẩu súng ra sao, chỉ thấy đôi mắt anh tròn xoe, ngồi né ra một tý cứ như thể súng có thể nổ vào người ấy. Một lát, Diễm bảo tôi: Mày để tao nghĩ đã... Vài ngày sau tôi đến vì tôi tin là bạn không bao giờ phản tôi. Gặp nhau lần này Diễm kéo tôi ra sân nói nhỏ: Bác tao là đội khố đỏ nói, vài khẩu súng quèn thì làm ăn gì, rồi cấm tao tham gia. Thôi tao sẵn sàng ủng hộ Việt Minh chúng mày, còn tham gia thì thôi. Tao còn phải khâu giày, bố tao kèm sát lắm.
Từ đó, tôi không gặp lại Diễm. Khi cuộc kháng chiến bùng nổ, năm 1948 tôi gặp lại Diễm ở phố Nỷ, trong một trường hợp tình cờ. Anh làm nghề cắt tóc rong ở chợ, ít lâu sau được tin anh "dinh tê"1.
Tuy phong trào Việt Minh đã lên cao, song đâu phải tất cả mọi thanh niên đều sẵn sàng đứng trong đội ngũ. Họ vẫn sợ, chỉ dám ủng hộ ngầm... vào khoảng cuối tháng 2 năm 1945, để chuẩn bị vũ khí, tôi đã kiếm nhíp ô tô, chuyển cho anh Lê Chiêu nhờ rèn hộ kiếm. Anh Chiêu đã chuyển kiếm đến tận nhà cho tôi: Số 10 phố Hàng Khoai.
Việc tìm nhíp ô tô đối với tôi là việc dễ, song tôi khâm phục việc bạn tôi, anh Lê Chiêu đã chuyển kiếm vào Hà Nội cho tôi. Giữ nguyên tắc bí mật, tôi không bao giờ hỏi xem rèn ở đâu, nhưng tôi phân vân hỏi: Hiến binh Nhật và cảnh sát lẫn mật thám Pháp như rươi thế làm thế nào anh chuyển kiếm vào nội thành được? Tôi nhớ mãi giọng Lê Chiêu cười: Tớ cho vào ống nứa và đèo xe đạp, ngon ơ. Quả thật anh đã chuyển kiếm cho tôi bằng cách đó.
Vào thời gian đầu 1945 thợ thuyền, công nhân thất nghiệp đầy đường, làm đủ mọi thứ, như bây giờ ta nói "bung ra" để kiếm sống. Trên đường phố đủ loại buôn thúng, bán mẹt. Các loại xe đạp tàng tàng thồ theo sau nào là bao tải, bó củi, bó nứa v.v...
Đó là sinh hoạt bình thường trên đường phố, thế mà tôi không nghĩ ra, dù sao đó cũng là việc làm dũng cảm, vì bất ngờ Nhật chăng dây đầu phố, khám xét thì cái
chết kề cổ.
~*~
1. "Dinh tê" là từ chỉ người bỏ kháng chiến, vào vùng địch kiểm soát sinh sống.