Cuối năm 1944, chúng tôi dán truyền đơn còn phải hết sức bí mật, thường là ban đêm hay tờ mờ sáng. Sang đầu 1945, nhất là sau đảo chính 9-3, phong trào Việt Minh lên mạnh, nhân dân hầu hết đứng về phía Việt Minh, nên chúng tôi hoạt động gần như công khai.
Anh Đức đã mua được khẩu súng ngắn "ổ quay". Đội đã có súng riêng nên chúng tôi rất hăng. Khoảng tháng tư, sau khi chúng tôi tham dự hai cuộc mít tỉnh lớn ở chợ Canh và Mễ Trì; chúng tôi thấy mình phải tự động nghĩ ra cách để hoạt động, vì vậy tôi bàn với anh Đức, một đội viên trong tổ Học sinh tìm cách treo cờ đỏ sao vàng lên đỉnh nhà máy nước tròn, thực ra đó là một tháp nước hình tròn rất cao, ở đầu vườn hoa Hàng Đậu. Tính thanh niên học sinh, chúng tôi thích làm cái gì thật nổi bật. Tôi giao cho Đức lân la với người thợ hàng ngày vào tháp nước, để xem xét đường lên đỉnh tháp. Sau khi nghiên cứu thấy không có đường nào có thể leo lên được, chỉ có thể treo ở cửa sổ trên cao, nhưng như vậy người công nhân trông nom có thể bị liên lụy. Chúng tôi quay sang bàn: "Hay là chúng ta treo cờ lên Tháp Rùa". Đang tuổi thanh niên, tất cả chúng tôi rất khoái cái sáng kiến đó, hơn nữa hướng đó có thể làm được. Mới nảy ra ý định, nhưng chưa bàn biện pháp. Đi làm, tôi bàn với Vân và Bính trong tổ công nhân, hai anh cũng rất thích. Một hôm (nay không còn nhớ thời gian), tôi xuống nhà anh Bính gặp cả ba anh: Vân, Bính, Bình trong tổ để trao đổi về việc treo cờ lên Tháp Rùa; ý các bạn tôi muốn treo vào ngày 1-5. Thời gian đã gần đến, tôi vội đi kiếm vải đưa các anh khâu cờ. Theo yêu cầu của tổ và đảm bảo bí mật, từ hôm đó tôi không xuống gặp anh em. Nơi chúng tôi bàn là nhà số 195 phố Lò Đúc. Đó là nhà chị Bình, chị ruột anh Bính. Tiếp đó cũng trong tháng 5, Lê Chiêu lại giao cho tôi huy động lực lượng để dán áp phích hô hào: Chuẩn bị tổng khởi nghĩa; lại phải dán vào ban ngày. Tôi lao vào chuẩn bị ngay nhiệm vụ mới này khi chưa kịp bàn bạc kỹ thêm với tổ anh Vân về việc treo cờ lên tháp Rùa. Thời gian khắc khoải chờ đợi đã đến. Ngày 1-5 được tin nhân dân xôn xao về cờ đỏ sao vàng trên Tháp Rùa, tôi vội phóng xe đạp ra Hồ Gươm. Tới nhà Thủy Tạ tôi muốn hét to lên: cờ của ta đã tung bay trên đỉnh tháp. Tôi phân vân không rõ có đúng tổ anh Vân không? Và các anh đã làm ra sao? Mãi sau này tôi mới được nghe chi tiết về sự kiện hào hùng ấy!
Treo cờ đỏ sao vàng lên đỉnh Tháp Rùa làm xôn xao cả Hà Nội, quả thật cũng sướng lắm chứ. Thời gian ấy nhiều đội bạn cũng làm nên nhiều chuyện xôn xao dư luận như diễn thuyết ở trường Kỹ nghệ thực hành, trường Thăng Long, trường Văn Lang...
Tôi khẩn trương tổ chức việc dán áp phích kêu gọi chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Lần này tôi huy động tổ học sinh để bàn bạc và chuẩn bị, vì chúng tôi ở gần nhà nhau. Mặt khác anh Đức to khỏe, lại có học võ, cũng là loại gan, nên gặp việc gì gay cấn tôi thường kéo anh đi cùng.
Chúng tôi bàn nên dán ở đâu để nhiều người đọc được. Từ nhỏ tôi thường được nghe câu nói trêu chọc mỗi khi chúng tôi nghịch: "Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò". Vâng, tuổi trẻ, lại là học sinh Hà Nội nữa, quả thật cũng có tinh nghịch. Song bên cạnh cái nghịch ngợm ấy, lại thường nảy sinh lắm sáng kiến độc đáo. Anh Đức, học sinh trung học nêu ý kiến: Ta đán béng vào tàu điện ấy, tàu chạy thì cả Hà Nội sẽ biết.
Tuyệt vời! Anh Triều người tuy bé nhỏ nhưng có tiếng là nghịch ngợm, cũng là loại có "tầm cỡ" ở cái phố Hàng Giấy chúng tôi, nói: Dán vào lúc mọi người đi làm ấy. Sợ cóc khô gì, càng dễ đánh bài "tẩu".
Tôi bật cười vì anh bạn bé hạt tiêu, cái loại xếp thứ ba sau quỷ và ma ấy lại nẩy ra ý kiến rất sắc sảo.
Tôi phân công: Đức "to con" mang dao găm. Triều nhỏ người mang áp phích và hồ đán. Tôi cũng sẽ mang vũ khí để đánh trả khi cần thiết. Tôi mang quả "đấm sắt", loại vũ khí đeo vào tay khi phải đánh nhau tay không. Chúng tôi nhất trí chọn con đường dài nhất: Ngã Tư Vọng - Bờ Hồ, vì tàu điện chạy qua các khu phố đông dân: Ga Hàng Cỏ, Cửa Nam, Hàng Bông, Hàng Gai, Hồ Hoàn Kiếm.
Đến hẹn, anh Lê Chiêu dẫn tôi đến phố Hàng Bông, giới thiệu tôi với một tự vệ chiến đấu ở đội khác, tôi đã quên số nhà nhưng còn nhớ ở giữa phố, hàng số chẵn. Phong là học sinh trường Thăng Long, chúng tôi vào nhà anh Phong giao tờ "áp phích" khổ to cả tờ "Crô-ki" (1m x 0,80). Tôi báo cho Lê Chiêu biết kế hoạch và ngày giờ hành động1.
~*~
1. Năm 1993, tình cờ tôi gặp anh lại Phong, anh đã quên tôi. Tôi hỏi địa chỉ và tìm đến nhà anh ở 116 phố Hàng Bông. Sau khi nhận ra tôi anh Phong cho biết: Anh nhận tờ áp phích ở người phụ trách - anh Bảo khé (tên người phụ trách bộ phận anh Phong). Gia đình anh từ trước vẫn ở 116. Qua trao đổi, tôi đã nhớ ra anh Phong là một đội viên trong tiểu đội tôi, gác chân Kỳ đài ngày Tuyên ngôn Độc lập (2-9-1945). Sau ngày đó anh trở về tiếp tục học thi nốt bằng Thành chung. Toàn quốc kháng chiến anh tham gia chiến đấu với tự vệ khu phố Hàng Bông, rồi rút ra ngoài cùng Trung đoàn Thủ đô. Anh công tác liên tục đến 1991, trước khi về hưu (1991), anh giữ chức vụ: Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, ban Nội chính Trung ương.