(Đã đăng trên Báo Cựu chiến binh Việt Nam - số 8/1977)

Ngày ấy, tháng 6-1945, anh Lê Chiêu (nay là thiếu tướng Quân đội nhân dân) đến nhà tôi bàn việc huy động đội tự vệ chiến đấu do tôi chỉ huy, phối hợp với một đội tự vệ khác phá cuộc mít tinh của bọn Đại Việt sắp tổ chức tại vườn Bách Thảo, vạch mặt chúng làm tay sai cho phát xít Nhật.

Nhiệm vụ cụ thể của đội là giải thoát cho người của ta nếu bị bọn địch bắt. Người của ta những ai, ngoài đội của tôi ra, còn lực lượng nào chúng tôi không được biết.

Lúc này mọi hoạt động đều theo nguyên tắc đơn tuyến và bí mật. 

Để phá cuộc mít tinh, chúng tôi có thể sẽ phải chiến đấu với bọn lính Nhật và bọn bảo an binh. Toàn đội của tôi rất trẻ, riêng tôi là đội trưởng chỉ mới 17 tuổi. Là những thanh niên công nhân, học sinh Hà Nội, chúng tôi đi theo cách mạng, chưa có kinh nghiệm chiến đấu nhưng tất cả đều sẵn sàng, đều hừng hực ngọn lửa cách mạng và lòng căm thù địch.

Sáng 17-6-1945, tôi mặc quần áo thật sang theo cách thường dùng để che mắt bọn mật thám. Trời lâm thâm mưa, tôi mặc bên ngoài một áo mưa mỏng màu đen để làm ám hiệu hành động.

Đội tự vệ chiến đấu của tôi gồm 5 thanh niên công nhân và hai học sinh trung học, đến khu Tám Mái (nay là phố Kim Mã). Tôi được giới thiệu với hai anh Nguyễn Văn Tý và Lam Ngọc, người của đội tự vệ bạn, lực lượng trực tiếp phối hợp với chúng tôi trong trận này (sau này tôi mới biết các anh là lực lượng tự vệ chiến đấu ở Yên Phụ). Chúng tôi nhất trí tập trung quân ở khu vực đối điện với kỳ đài (núi Nùng), nơi thuận lợi có nhiều hướng rút lui khi cần thiết.

Theo kế hoạch, các đội viên phân tán, đi lẫn vào những người tham dự mít tỉnh. Tôi ở vòng ngoài, được giới thiệu với một chú bé người còi cọc, quần áo lem luốc (sau này tôi mới biết lúc ấy chú là thợ sắp chữ ở nhà in). Chú bé đeo một thùng bánh rán có hai ngăn, ngăn trên để bánh rán, ngăn dưới để 6 khẩu súng ngắn. Tuân thủ nguyên tắc bí mật, tôi và chú bé chỉ chào nhau và bàn công việc, chẳng ai hỏi tên và chỗ ở của nhau. Tôi đi ra vườn Bách Thảo, chú bé theo sau, vừa đi vừa rao: "Ai bánh rán nóng đây". Tiếng rao của chú bé lúc gần lúc xa, như luôn báo hiệu cho tôi: em vẫn theo anh đây! Tôi thầm nghĩ: Chú này vào loại gan cóc tía, còn bé mà có vẻ khá dày dạn. Tôi lại thấy thương chú. Liên tưởng tới em trai tôi mới 15 tuổi đã phải đi làm "ét ô tô" một nghề quá vất vả so với tuổi.

Tôi phác nhanh trong đầu kế hoạch hành động để bảo đảm lúc phải nổ súng, chú bé được an toàn. Tôi dặn chú: "Em bán quanh quẩn gần anh nhé, khi cần thì đặt thùng bánh xuống đất và tránh đi nơi khác". Chú bé đáp gọn "Vâng" rồi đứng trú mưa dưới gốc cây xà cừ, thỉnh thoảng lại rao "Ai bánh rán đây".

Tôi đứng lên một mô đất cao để các đội viên dễ trông thấy. Các đội viên đã tản mát hết vào đám đông. Lâm Ngọc người to lớn, mắt ốc nhồi, chăm chú nhìn lên kỳ đài, một tên Đại Việt bước ra nói gì đó trước máy phóng thanh. Bỗng một thanh niên từ đám đông chạy vọt ra, ngay qua trước kỳ đài, tay tung truyền đơn, miệng hô "Đả đảo Việt gian". Lập tức trong đám đông ầm ầm nổi lên tiếng thét "Đả đảo Việt gian", "Đả đảo phát xít Nhật", "Ủng hộ Việt Minh". Các đồng đội của tôi theo kế hoạch, chen lấn trong đám đông, gây rối loạn và nói to: "Bà con ơi, về đi thôi, đánh nhau mất". Riêng tôi, vì cần để các bạn thấy rõ ám hiệu hành động (cởi áo mưa đen là "rút") nên vẫn đứng nguyên ở mô đất cao, miệng hô lớn "Đả đảo phát xít Nhật". Gần đấy, ở gốc xà cừ, chú bé bán bánh rán vẫn rao "Ai bánh rán đây".

Cuộc mít tinh rối loạn hoàn toàn. Mọi người nhốn nháo kéo nhau ra về. Trên kỳ đài, bọn quan khách ngơ ngác, lũ tay sai và bọn lính bảo an thì ngẩn tò te. Không có ai bị bắt, kẻ địch quá bất ngờ nên không kịp đối phó.

Tôi cởi chiếc áo mưa màu đen ra để làm ám hiệu "rút". Sau đó mới quên là không phổ biến trước cho chú bé ám hiệu này, vì vậy chú vẫn rao "Ai bánh rán đây". Tôi nhanh trí quát lên "Mít tinh tan rồi, ai còn ăn bánh rán nữa, về thôi". Tôi tin là chú hiểu. Quả nhiên chú không rao nữa, lặng lẽ biến nhanh vào đám đông. Tôi cũng rút và không khỏi lo lắng cho chú. Bọn Nhật thường hay bất ngờ chăng dây ngăn các đường phố để khám xét người qua lại. Nếu chúng phát hiện được sáu khẩu súng ngắn trong thùng bánh rán thì nguy hiểm cho chú biết chừng nào.

Từ đó tôi không gặp lại chú bán bánh rán lần nào.

40 năm sau. Ngày 28-8-1985, trong buổi lễ kỷ niệm lần thứ 40 Cách mạng Tháng Tám tổ chức tại Hà Nội, đồng thời là cuộc gặp mặt của các cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và đội viên tự vệ chiến đấu đã tham gia Tổng khởi nghĩa ngày 19-8-1945, rất bất ngờ, tôi được gặp lại "chú bé bán bánh rán” năm xưa.

Trong cuộc họp, một cán bộ có tên là Mùi, 55 tuổi, cán bộ ngành y nghỉ hưu (hiện ở căn hộ số 12 phố Lý Văn Phúc) đã kể chuyện những ngày gần Tổng khởi nghĩa hồi ấy mới 15 tuổi, ông tham gia phá cuộc mít tinh của bọn Đại Việt, đóng vai một chú bé bán bánh rán, trong thùng bánh có sáu khẩu súng ngắn. Ông luôn bám sát một đội trưởng tự vệ trẻ, đến khi cuộc mít tinh bị phá võ, ông còn ngơ ngác không biết đã rút lui được chưa thì anh đội trưởng nói to: "Mít tinh tan rồi, ai còn ăn bánh rán, về thôi". Kể xong câu chuyện, ông nói: "Chẳng biết anh đội trưởng ấy có còn không, bây giờ ở đâu?".

Ông Mùi vừa dứt, tôi không nén được xúc động, lao đến chỗ ông, nắm tay ông, nói như đứt hơi: "Tôi đây, tôi đây, người mặc áo mưa đen đây. Ôi "chú bé bán bánh rán", không ngờ chúng ta lại gặp nhau". "Chú bé bán bánh rán" tròn xoe mắt nhìn tôi giây lát rồi dang rộng hai cánh tay. Chúng tôi ôm lấy nhau, siết chặt vòng tay. Ông Mùi nói với tôi: "Hôm ấy, từ chỗ mít tinh tôi về đến đầu chợ Ngọc Hà, gặp lúc bọn Nhật chặn người khám xét, tôi lo quá, nếu quay lại chúng có thể sẽ sinh nghi, đành đứng lại, lợi dụng chúng đang khám những người lớn, lủi ra sau lưng chúng, thế là thoát". Tôi lặng yên nghe tiếng vọng từ 40 năm trước "Ai bánh rán nóng đây".

~*~

Tuy phong trào "Việt Minh" lên cao, nhưng tôi luôn luôn đề phòng. Tôi nghĩ nó chưa bắt mình, nhưng mật thám đã theo dõi, có thể nó ập đến bắt tại nhà vào bất cứ lúc nào. Gia đình tôi thuê được "hai giường" ở số nhà 10 phố Hàng Khoai đối diện dãy nhà tôi, bên số lẻ có hai nhà có người đi làm ở Sở mật thám. Đôi khi, nó còn móc còng số 8 ở sau yên xe đạp, đi nghênh ngang... cả phố đều biết.

Tôi chú ý, không làm gì lộ liễu ở phố mình. Tôi cũng chuẩn bị cho mình kế hoạch thoát thân khi bị vây bắt. Nhà tôi thuê ở trên gác, là loại nhà cổ, thấp, có thể nhảy chuyền trên mái ra sau nhà, đứng trên nóc nhà xí có thể nhảy bám vào thành cầu Long Biên, sau đó chạy tắt một quãng trên cầu, tụt xuống đê sông Hồng, chạy thoát ra bãi Phúc Xá...

Chính vì lẽ đó, nên sau hai lần "xuất đầu lộ diện" trước đông người vào tháng 5 và 6 năm 1945 tôi tạm tránh không đến gặp các tổ viên, cũng vì thế, tôi chưa hỏi được xem có phải tổ anh Vân ở Lò Đúc cắm cờ trên đỉnh Tháp rùa ngày 1-5 hay không. Còn tổ anh Vân cũng không ai dám đến gặp tôi vì theo quy định: không được tự động gặp nhau ở số nhà 10 Hàng Khoai, để tránh sự tò mò của tên mật thám ở trước cửa nhà tôi... Đối với tôi, sự cẩn thận trong thời gian ấy không phải là vì quá "nhát gan". Tôi đã 2 lần rơi vào thế nguy hiểm đến "rụng tim".

Một lần sau ngày đảo chính của Nhật tháng 3-1945 Lê Chiêu đến gọi tôi cùng đi vào Cầu Giấy. Tôi là thanh niên sinh ra và lớn lên ở nội thành, đôi khi có ra ngoại ô là để đi chơi, như vào chùa Trầm, vào chùa Láng hoặc lên Quảng Bá để bơi, ít khi vào các làng nên không biết tên làng và đường đi. Hôm đó tôi đi theo Lê Chiêu. Hai chúng tôi đi xe đạp, ở khung xe đều có móc cặp sách. Qua chùa Láng, rẽ vào một làng, Lê Chiêu dắt xe đi trước, tôi theo sau. Chúng tôi vào gần đình độ 50m có giếng to. Trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945, các làng ở đồng bằng Bắc Bộ thường có loại giếng đất, miệng giếng to như ao. Chỗ lên xuống để gánh nước có xây bậc. Chúng tôi hay nói đùa: Trước khi múc nước phải rửa chân, vì phải theo bậc lội hẳn xuống giếng mới dùng thùng múc nước được.

Đi ngang qua giếng, thấy có hai người to béo so với người Việt Nam lúc đó, mình "trần như nhộng" đang đứng lau mình ở bậc, chúng tự nhiên hét tướng lên. Chúng tôi giật mình, khi biết đó là hai tên lính Nhật. Nhìn vào cửa đình làng, có Nhật cầm ngang súng gác. Hóa ra anh Lê Chiêu dắt xe đạp đi trước, vô ý đã đè lên hai đôi dép của chúng để ở lề đường làng. Chả hiểu sao lúc đó chúng tôi bình tĩnh lạ. Lê Chiêu nắm lấy ghi đông xe tôi nói: Cậu rửa dép trả nó. Tôi cúi xuống cầm dép, kỳ cọ thật sạch, sau đó cúi đầu lễ phép nói: "A-ri-ga-tô". Lúc đó tôi chỉ hiểu mang máng tiếng Nhật "a-ri-ga-tô" là cảm ơn hay xin lỗi hoặc là cái "quỷ gì đó" nhưng ý là tốt thôi...

Hai thằng "giặc lùn" nhìn chúng tôi trừng trừng. Lê Chiêu bảo tôi: Ta quay lại thôi. Chúng tôi lễ phép cúi chào chúng rồi dắt xe chuồn cho nhanh. Ra khỏi đường làng, Lê Chiêu bảo tôi: Mọi khi đi qua có thấy Nhật đâu, chúng đến bao giờ không biết. May quá cặp để đầy truyền đơn và có 1 khẩu súng lục.

Tôi cũng "hú vía" suýt bị bắt vì cái chuyện "vớ vẩn" như thế!

Về đến nhà vẫn còn tức, tôi nghĩ: Người dân mất nước khổ trăm bề. Chúng nó trần truồng tắm trước đình làng, một nơi tôn nghiêm, lại tắm ở giếng ăn của cả làng thế mà lại còn bị chúng quát và phải gập lưng xin lỗi. Tôi ấm ức mãi, nghĩ bụng: "Rồi chúng mày sẽ biết tay ông"!.

Một bận khác, sau lần phá mít tinh của bọn "Đại Việt" ở vườn Bách Thảo, tôi được báo đến tập trung (riêng đội trưởng) tại một làng ven sông bên phía Gia Lâm. Hôm ấy Lê Thảo đến cùng đi (tức là Lê Chiêu). Họp nói về "Tổng khởi nghĩa". Sau cuộc họp lại có ông "tếu" lên bắn vài phát súng lục... Tôi nhận lá cờ đỏ sao vàng khá to, bỏ vào cặp sách ra về. Tới đầu cầu Hà Nội, lúc đó đầu cầu phố Hàng Đậu, là nơi người đi bộ sang Gia Lâm, còn xe cộ thì từ Gia Lâm đổ về Hà Nội. Tôi thả xe xuống dốc đầu cầu. Tới lưng chừng thì ôi thôi, cảnh sát đã chặn đầu cầu khám xét người ở Gia Lâm về.

Nguy quá, lần này tôi không mang vũ khí, nhưng có lá cờ to nằm "chềnh ểnh" ở trong cặp. Sau tôi, nhiều thanh niên đang thả xe xuống dốc. Chả có cách nào khác, khi tên cảnh binh ra lệnh: "Mở cặp ra", tôi đàng hoàng hé cặp, vừa đủ cho nó nhìn thấy lá cờ, mắt tôi nhìn thẳng vào mắt nó, rồi đóng cặp lại... Chả hiểu sao, có thể vì có lực lượng thanh niên rất đông đứng sau tôi, tên cảnh sát nói khẽ: "Thôi cậu đi đi"!.

Thật là hú vía, tôi nhẩy lên xe, phóng vào phố Hàng Đậu, rẽ ngang qua gầm cầu (nay là phố Nguyễn Thiếp) rồi ngoặt về phố Hàng Khoai, vào nhà cất biến lá cờ vào "kho vũ khí" ở trên trần nhà.

Kể lại truyện này với anh em, chúng tôi đoán có thể chúng sợ, vì gương trừ gian của đội "danh dự", chắc chúng biết. Cũng có thể tên cảnh sát trẻ đó cũng là một "Việt Minh" như chúng tôi, nên nó nói "cậu" có nghĩa là bạn bè. Đức, một tổ viên, lại khẳng định: Anh cảnh binh ấy là một "Việt Minh", vì Đức cũng gặp một chuyện tương tự. Hôm nhận quyển "Tổng cương tự vệ chiến đấu" ở nhà tôi, trên đường về chẳng may bị quây và dẫn vào "bót" Hàng Đậu với nhiều người khác. Đến lượt anh, bị tên cảnh binh hỏi, Đức vô ý để quyển "Tổng cương" ấy lên bàn. Tên cảnh binh cầm xem. Đức giật thót người, nào ngờ nó giở xem mấy tờ, sau đó trả lại và bảo: "Cậu về đi". Vì thế Đức khẳng định: lực lượng Việt Minh, có khá đông trong số cảnh binh trẻ.

Sau này, đọc sách viết về Cách mạng Tháng Tám, có đánh giá: "Hàng ngũ địch đã hoang mang đến cực điểm, nhân dân sẵn sàng hưởng ứng lệnh khởi nghĩa của Việt Minh"1. Tôi thấy rất chính xác.

Chính cái "tình thế" ấy đã góp phần tạo cho chúng tôi cơ hội hoạt động táo bạo và gần như công khai. Mặt khác, những hoạt động táo bạo của các lực lượng "Thanh niên xung phong", "Tự vệ chiến đấu", "Đội danh dự" lại thúc đẩy tinh thần sôi sục ở Thủ đô lên thành cao trào kháng Nhật.

Tất cả đã sẵn sàng!

~*~ 

1. Cuộc vận động Cách mạng Tháng tám ở Hà Nội, Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng, Thành ủy Hà Nội 1975, trang 128.