(Bài đăng trên báo Tuần Du lịch - số ra ngày 17-8-1998)

Từ nhỏ, tôi đã có một đam mê, thỉnh thoảng ra Bờ Hồ Hoàn Kiếm, yên lặng ngồi ngắm Tháp Rùa. Hôm nay, tiết trời oi bức, quanh Hồ Gươm vẫn tấp nập, đông vui.

Quanh gốc cây Lộc Vừng, bên mép hồ, một tốp thanh niên đang vui chơi, một giọng ca vút lên:

Hà Nội ơi! Có tự bao giờ.
Mấy ngàn năm chói chang rực rỡ,
Hà Nội! Như một bài ca,
Vẫn âm vang trong tâm hồn ta...

Bất chợt kỷ niệm về lá cờ đỏ tung bay trên đỉnh Tháp Rùa trong tôi vụt thức dậy.

Ngày ấy, từ những tháng đầu năm 1945, không khí ở Hà Nội thật ngột ngạt và cũng thật sôi động. Đâu đâu cũng thấy những tốp người, da bọc xương, đói lả, xiêu vẹo lê chân trên hè phố. Ngày nào cũng nghe thấy tiếng bánh xe bò lộc cộc, buồn thảm, chở đầy xác người chết đói... Rôi những tên lính phát xít Nhật, gươm sệ hông, nện gót ủng khắp nơi, mắt nhìn soi mói, thỉnh thoảng, bất ngờ, chúng chăng dây các đầu phố khám xét bắt bớ...

Địch ra sức khủng bố, các tổ chức cách mạng ở Hà Nội càng hoạt động mạnh. Nhiều cuộc mít tinh kêu gọi quần chúng phá kho thóc Nhật cứu đói... Những cuộc võ trang tuyên truyền, kêu gọi nhân dân Hà Nội đứng lên cứu nước đánh Pháp đuổi Nhật liên tiếp nổ ra ở nhiều nơi: chợ trường học, rạp hát, đường phố. Không khí tiền khởi nghĩa sục sôi. Lực lượng tự vệ chiến đấu do Thành ủy Đảng Cộng sản Hà Nội tổ chức, lãnh đạo phát triển mạnh. Đội tự vệ chiến đấu do tôi chỉ huy có 3 tổ. Hai tổ là công nhân, một tổ là học sinh trung học.

Khoảng giữa tháng 4 năm 1945, sau khi cùng tổ học sinh nghiên cứu treo cờ lên đỉnh tháp nước tròn ở ngã sáu, cuối phố Hàng Đậu, không thành công, vì không thể leo lên được. Tôi xuống gặp tổ tự vệ chiến đấu công nhân phố Lò Đúc, tại ngôi nhà số 195, bàn việc treo cờ lên đỉnh Tháp Rùa.

Tất cả nhất trí phương án bơi ra Tháp Rùa, treo cờ vào đêm 30-4 để kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5. Các anh yêu cầu tôi không nên tới gặp thêm nữa, vì sợ tôi đạp xe xuống luôn dễ lộ. 

Khi chia tay, tôi hỏi vui: Các cậu bơi ban đêm không sợ rùa đớp à? Tổ trưởng Vân đáp: Rùa Thần đã giúp Lê Lợi đánh giặc cứu nước nhất định sẽ giúp bọn mình hoàn thành việc treo cờ. Tất cả cười, vui...

Thời gian khắc khoải đợi chờ đã đến. Sáng 1-5 tôi phóng xe đạp ra hồ Hoàn Kiếm. Vừa đến nhà Thủy Tạ, tôi muốn hét thật to: Cờ của ta đã tung bay trên đỉnh Tháp Rùa rồi! Như đi dạo chơi, tôi lững thững đắt xe đạp từ Thủy Tạ, xuôi về "Bốt Hàng Trống". (Đồn cảnh sát Pháp - nay là Công an quận Hoàn Kiếm) lòng rộn rã niềm vui.

Quanh bờ Hồ, rất đông. Ai cũng như đang vội, đi qua, đi lại, liếc nhìn về phía Tháp Rùa. Có những người đứng lại nhìn, lập tức những tên đội sếp (cảnh sát thời Pháp) hét lên: "A-lê! Đi, đ. muốn vào tù không?...". Nhìn nét mặt họ không thấy vẻ hằn học, tôi đoán, họ cũng vui. Có thể lá cờ đỏ sao vàng đang tung bay trước gió kia, đã nhen lên trong tâm hồn họ những đốm lửa của lòng yêu nước...

Kế hoạch hành động giản đơn, nhưng được bàn kỹ, chuẩn bị chu đáo và điều quan trọng là có được phương án địch không ngờ tới.

Hai anh Bính và Bình, bơi thạo, nhận công việc bơi ra Tháp Rùa cắm cờ. Các anh nhiều lần đi quanh Hồ Gươm, quan sát quy luật canh gác của đội sếp và hiến binh Nhật. Đã phát hiện được đoạn từ nhà Thủy Tạ đến nhà Khai trí Tiến Đức, chúng ít canh gác. Cây cối xum xuê, đèn hơi tối. Nơi đó được chọn làm điểm xuất phát. Anh Vân bơi kém, làm nhiệm vụ canh gác ở trên bờ. Anh chuẩn bị một hòm nhỏ, hai ngăn. Ngăn trên đựng lạc rang và hạt dẻ. Ngăn dưới để lá cờ. Tới bờ Hồ, sau khi trao cờ cho hai bạn, Vân đóng vai người bán lạc rang, để theo dõi, báo động. Tình hình bình thường thì rao: "Ai lạc rang nóng ròn đây". Nếu có động sẽ rao: "Ai lạc rang, hạt đẻ nóng ròn đây".

Cái khó khăn nhất là làm sao mang cán cờ từ phố Lò Đúc lên bờ Hồ mà không lộ. Anh Bính đã có sáng kiến, tận dụng các tối đi trinh sát, mang gửi bà bán hàng nước ở bến xe điện gần nhà Thủy Tạ.

Bơi thế nào để nước ít xao động, đảm bảo bí mật, các anh đã chọn cách "bơi ếch" kết hợp với từng lúc dừng lại "bơi đứng", cứ thế vừa luân phiên nhau tiến lên, vừa nghe ngóng động tĩnh.

Đêm 30-4-1945, mọi việc diễn ra suôn sẻ, đúng kế hoạch. Ra về các anh sung sướng thay nhau rao: "Ai lạc rang nóng ròn đây!"...

Trên nửa thế kỷ đã trôi qua, ngồi nhìn lá cờ Tổ quốc phấp phới tung bay trên đỉnh Tháp Rùa, tôi bồi hồi nhớ tới các anh. Hai anh Vân và Bính đã anh dũng hy sinh trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Anh Bình người đội viên cuối cùng của tổ, tuổi cao, cũng đã đi xa từ cuối năm 1995, ở chính ngôi nhà số 195 phố Lò Đúc.

Cách chỗ tôi ngồi không xa, một đoàn du khách người nước ngoài, đang chăm chú nghe cô hướng dẫn viên du lịch. 

Chắc cô giới thiệu rất hay về truyền thuyết Rùa Thần. Song có lẽ cô chưa biết, trong lịch sử Hồ Gươm, Rùa Thần cũng đã giúp 3 thanh niên công nhân Hà Nội, vượt hồ an toàn, treo cờ sao vàng lên đỉnh Tháp, giữa vòng vây dày dặc của cảnh binh, và hiến binh Nhật ngày ấy.

~*~

Tháng 6 năm 1945, anh Lê Chiêu đến nhà tôi, trao đổi việc huy động toàn đội tham gia chiến đấu, phá cuộc mít tỉnh của bọn "Đại Việt" tổ chức ở vườn Bách Thảo, để bịt cái loa cổ động cho cái trò hề đề cao Nhật của chúng. Nhiệm vụ thật là nặng đối với chúng tôi: Dùng súng đánh trả lại bọn bảo an ninh và lính Nhật để giải thoát cho đồng đội nếu bị chúng bắt. Đồng đội là ai chúng tôi không biết và cũng không hỏi bởi vì bí mật. Còn phá mít tỉnh, thì bài bản đã quen, tức là hoạt động bằng mọi hình  thức làm rối loạn cuộc mít tình, hình thức cụ thể ra sao thì "tùy cơ ứng biến". Điều này thì quen rồi, còn việc dùng súng đánh nhau với quân đội Nhật và bảo an binh, quả thật bản thân chưa biết sẽ ra sao. Song nhận nhiệm vụ, chúng tôi không có ai có chút đắn đo, tất cả hừng hực một khí thế "quyết tử". Chúng tôi xúc động, nắm tay nhau hát khẽ: "Đoàn quân Việt Minh đi chung lòng cứu quốc"1.

Những thanh niên công nhân, học sinh Hà Nội chúng tôi đi theo ngọn cờ Cách mạng như thế đó. Đâu có phải chúng tôi không biết nguy hiểm luôn bám theo sau từng hành động của mỗi người. Nhiều người ở Hà Nội đã tận mắt trông thấy lính phát xít Nhật rút gươm chặt phăng bàn tay người mình chỉ vì đói mà phải lăn vào cướp thóc do chính chúng cướp của bà con ta. Tôi đã từng ra hố "tăng xê" ở đầu cầu Long Biên nơi có tên lính Nhật cầm ngang súng đứng gác, nhìn xác người đàn ông mặc áo the đen, lưng dựa vào vách hố, đầu bị chém còn dính ít da cổ, treo lơ lửng trước ngực... từng vùng áo the đen cứng lại, xám xịt máu...

Còn chúng tôi, mọi hoạt động của mình ở đâu cũng được những ánh mắt, nụ cười và sự hưởng ứng của nhân dân Hà Nội. Những bài hát, lời thơ yêu nước thôi thúc chúng tôi lao lên phía trước, bất chấp mọi hiểm nguy...

Mỗi khi nghe đọc đoạn thơ

.. Mã chiếm sơn buông cương và ngẫm nghĩ
Ngựa rung bờm hí lạnh giữa tàn quân,
Đồi nương xa bốc cháy đỉnh non Tần,
Đã khuất phục dưới lá cờ binh Nhật...

... Mã chiếm sơn đâu cứu nước mã chiếm sơn ơi!2.

Tôi tưởng như, đó là tiếng gọi từ chính trái tim mình.

Để nắm chắc vũ khí, tôi yêu cầu anh Lê Chiêu cho thử súng. Đúng hẹn, tôi đến một ngôi nhà ở phố Tám mái cạnh nhà máy gạch Năm Diệm (nay là phố Giảng Võ) anh dẫn tôi vào nhà, qua sân đến một hầm trú ẩn đào để tránh bom Mỹ. Ngày đó Mỹ ném bom các doanh trại của Nhật. Nhưng rơi vào các phố đông, dân ta chết nhiều lắm. Anh Chiêu lấy ra khẩu súng ngắn, lên đạn và bắn thử. Tôi đã cầm súng ngắn đi tuyên truyền nhiều lần. Tiếng súng nổ tôi cũng không còn lạ vì ngay tối 9-3, lúc Nhật đảo chính Pháp súng đang nổ ầm ầm, tôi cũng đã cả gan chạy ra đường Bờ sông (là phố Trần Nhật Duật ngày nay) để xem Pháp có vứt súng thì nhặt. Tôi không sợ tiếng súng nổ nhưng cầm súng ngắm vào người bóp cò, nhất là bọn lính Nhật và bọn Bảo an ninh, chúng cũng có súng, có gươm thì quả cũng lo. Những gương sáng trên báo "Cứu quốc" (báo bí mật)
luôn làm tôi hào hứng, nhất là các tin như: Nữ du kích đi thuyền tuần tra trên hồ Ba Bể...

Tôi thấy hăng hái lên. Kể ra thì cũng thích, trước đây chúng đánh, chúng chém người mình đành gục đầu chịu chết, nay mình cầm súng trong tay hiên ngang bắn trả chúng, quả thật rất đáng tự hào. Tôi chỉ lo: nhỡ súng không nổ thì sao?

~*~

1. Tiến quân ca ngày nay (nhạc và lời Văn Cao). Hồi đó chúng tôi học truyền khẩu như vậy.
2. Thơ Tố Hữu "Ly rượu thọ" - năm 1937.