Thời gian cuối tháng 6, 7 năm 1945 chúng tôi khẩn trương điều tra các nơi canh gác của Nhật ở trong thành. Nhận nhiệm vụ này, chúng tôi rất hiểu, bài học Nhật bất ngờ đánh úp quân Pháp tối mồng 9 tháng 3 và chỉ cho chúng tôi tầm quan trọng của nhiệm vụ. Công việc này, tôi và Đức làm, vì tôi đã từng làm việc, đi lại ở trong thành, qua các con đường từ Cửa Đông, Cửa Nam và Cửa Bắc. Anh Đức bố làm "bồi" cho chủ người Pháp ở số 7 phố Các-nô, nay là số 7 Phan Đình Phùng, vì vậy anh có thể tìm hiểu qua bạn của bố làm ở trong thành. Chúng tôi hoàn thành bản vẽ cũng nhanh, theo trình độ "i, tờ" về quân sự của chúng tôi ngày ấy.
Chúng tôi cũng khẩn trương chuẩn bị chiến đấu thực sự: Công khai tập luyện các thế võ: đâm, chém, gạt... Anh Đức, tuy giữ súng lục, nhưng lại thực tập đâm lê "kiểu Nhật". Tôi thường xuống nhà một người quen với anh vợ tôi ngày nay, anh ấy tên là Khiếu. Nhà anh Khiếu mở hiệu bán thuốc lào đối diện với Cây đa nhà bò ở phố Lò Đúc. Cùng ở đó, có một thanh niên tuổi hơn tôi chút ít, tôi quên tên anh ấy, anh có thanh kiếm rất tốt, anh cũng tập chém cột tre. Anh nói: "Tập để chém một nhát đứt cột". Tôi không lộ cho anh biết tôi là tự vệ chiến đấu, còn tôi lại rõ anh là "một Việt Minh chính hiệu con nai vàng" - anh nói vậy. Thời gian ấy ở đâu cũng tập công khai, vì ta đã lợi dụng phong trào học võ đang sôi nổi để đẩy mạnh việc chuẩn bị cho vũ trang khởi nghĩa ở Hà Nội. Tôi tảng lờ xin anh cho mượn kiếm để tập những lúc anh mỏi tay nghỉ. Tôi tập chém kiểu Nhật, chém bằng hai tay. Tuổi 17, lại học đôi ba thế võ, nên tôi chém cũng khá chính xác, tuy chưa chém đứt đôi được cột tre, song lưỡi cũng ngập vào cột tre khá sâu.
~*~
Tối ngày 16 tháng 8 năm 1945, tôi được Lê Chiêu báo rất gấp: huy động toàn đội tự vệ chiến đấu, tham gia phá mít tinh do Tổng hội viên chức, một tổ chức thân Nhật sẽ tổ chức ở Nhà hát Lớn (nay là Nhà hát thành phố) vào sáng 17 tháng 8 năm 1945. Lần này hoạt động công khai, ban ngày ở ngay trung tâm thành phố. Tôi nghĩ sẽ gay go hơn "trận" ở vườn Bách Thảo tháng 6. Trước khí thế sôi sục của Tổng khởi nghĩa, tôi tin sẽ thắng lợi. Chúng tôi báo cho toàn đội, mỗi người mang theo vũ khí gọn, giấu kín trong người: Súng lục, dao găm, quả đấm sắt. Anh Tá thợ nề lại lợi dụng nghề nghiệp ôm theo chổi quét vôi để ngụy trang, còn vũ khí, anh cầm công khai ở tay: Con đao xây - con dao to bản, lưỡi dầy, ở tay người có tý võ thì cũng rất lợi hại. Tôi nói vui với anh Tá: "Dao này mà chém thì đầu toác đôi như quả dưa bổ". Tá hồn nhiên đáp: "Toác như chẻ gạch ấy chứ lỵ"...
Chúng tôi ra quân rất vui.
Tôi chỉ phán đoán, ta sẽ phá như phá mít tinh ở Bách Thảo thôi, vì thế tôi nói với anh em biện pháp làm sao để tránh dùng đến vũ khí: Nếu "bạn" nào đó bị cảnh sát hay lính bảo an bắt thì chen lấn vào giằng co và kêu toáng lên: Bà con ơi họ bắt người vô cớ! Bất đắc dĩ phải dùng vũ khí thì lợi dụng lúc chen, đẩy ấy đánh thật nhanh rồi lủi mau, vì ở trung tâm thành phố chúng đông hơn. Chung quanh thì dầy đặc "đồn bốt" Nhật, cảnh sát và bảo an binh: Bộ Tổng tham mưu Nhật (33 Phạm Ngũ Lão), đồn Thủy, nhà Băng (Ngân hàng Trung ương ngày nay), nhà dầu Shell (Khách sạn Hòa Bình ngày nay), trại Bảo an binh, "bót" Hàng Trống... Hơn nữa lại rất gần nơi đầu não chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, nên chúng huy động lực lượng rất nhanh (Phủ Khâm sai - nay là nhà khách Chính phủ).
Diễn biến cuộc phá buổi mít tinh ngày 17-8 đối với tôi thật hết sức bất ngờ. Khi lá cờ đỏ sao vàng rất to buông từ gác Nhà hát thành phố xuống, những tiếng thét: "Ủng hộ Việt Minh", "Đả đảo Việt gian"... ầm ầm rền vang. Nhiều lá cờ đỏ sao vàng do các đoàn viên thanh niên xung phong và đội viên tự vệ chiến đấu giương cao, chạy dọc, ngang như xé nát đội ngũ những người tham dự mít tinh. Cả biển người náo động, trông như những đợt sóng, nhô lên phía này, dãn ra chỗ khác, theo hướng chuyển động của những lá cờ...
Tôi nhìn Tá và Đức, hai người luôn sát cạnh, tôi nói: Các đội bạn làm ăn tuyệt quá. Chú ý, xem chúng có bắt ai không. Tôi thấy người rạo rực khó tả. Nhìn chung quanh, thấy những nét mặt hân hoan, người cười, kẻ hét, náo động cả quảng trường. Lính bảo an binh đứng ngây ra như "phỗng đá". Trên khán đài, ai đó đang nói, thực lòng vì quá ồn ào tôi chẳng nghe thấy gì cả, mà chẳng cần nghe, cứ nhìn chung quanh là hiểu tất cả: Toàn dân đã đứng về phía chúng tôi - lực lượng Việt Minh.
Kết thúc thật hoàn toàn ngoài tưởng tượng của tôi. Biển người biến thành cuộc tuần hành, chúng tôi và nhiều bạn Việt Minh khác, kéo "anh em bảo an binh" đi theo đoàn biểu tình. Nghĩ lại, tôi thấy Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội ngày đó giỏi thật. Quyết định tại chỗ: tuần hành. Thật tài tình. Hành động quyết đoán vào thời điểm ấy, tác động to lớn biết nhường nào? Huân chương nào cho xứng!
Đội chúng tôi dẫn đầu một đoàn tuần hành, đến bờ hồ Hoàn Kiếm, nhìn lại bên tôi chỉ còn anh Tá thợ nề, còn các bạn khác đi theo các hướng khác nhau. Vì đông quá, lắm hướng quá, vì cả sự hăng say nên toàn đội không giữ được liên lạc với nhau, tất cả hòa vào trong khối đông đảo nhân dân.
Có lẽ như thế, lúc ấy là cần thiết.
Tôi và Tá về đến nhà, vẫn được tin nhiều cuộc tuần hành ở nhiều hướng còn kéo dài đến tận khuya. Đâu đâu cũng nghe tiếng hét: Ủng hộ Việt Minh, Đả đảo phát xít Nhật...
Tôi chưa hình dung nổi tình hình sẽ đi tiếp ra sao, vẫn theo nếp cũ, tôi dặn anh Tá, về nhà vẫn phải giữ bí mật. Ngôi nhà, gia đình tôi ở thuê toàn người nghèo và thợ thuyền. Nhà kiểu cổ, "đường ống" diện tích độ 60 - 70m2, thế mà có 7 gia đình ở: Thợ ô tô, thợ nề, bán cháo rong, thợ đánh bóng đồ đồng, phó may... Tối hôm đó, ngôi nhà bé nhỏ của chúng tôi hình như cũng sôi động hẳn lên. Tất cả đổ ra trước cửa và bàn tán, bình luận về "Việt Minh thả cờ" ở Nhà hát Lớn và các cuộc tuần hành... Các bác, các bà hỏi tôi: "Người ta biểu tình ầm ầm còn cậu Lâm sao không làm cái gì?". Tôi yên lặng, trong bụng mừng thầm vì đến phút đó vẫn giữ được bí mật!
Sáng 18-8-1945, Lê Chiêu đến tìm tôi hẹn: Chuẩn bị mọi mặt, tờ mờ sáng 19-8 cho toàn đội mang cờ, vũ khí tập trung ở Tám Mái. Tổng khởi nghĩa! Tôi vội đạp xe đi báo cho toàn đội, dặn anh em, ăn mặc gọn gàng, đề phòng phải "đánh nhau" với bảo an binh và Nhật...
Tôi không thể nói hết được tình cảm của mình và của anh em lúc đó, khi được tin: "Tổng khởi nghĩa".
Ngày mai "Tổng khởi nghĩa" sẽ ra sao.
Chúng tôi phải chiến đấu thế nào.
Tôi là chỉ huy đội phải làm gì.
Đêm đó, đợi mọi người trong nhà đã đi ngủ, tôi lén "mở kho" lấy gươm ra mài thật sắc. Tôi chuẩn bị sẵn băng đỏ, và gói lại gối đầu giường. Mừng, lo lẫn lộn. Đêm 18-8, trằn trọc mãi, song đang "tuổi ăn, tuổi ngủ" tôi thiếp đi lúc nào không hay. Nghe tiếng gọi: "Lâm ơi! Lâm ơi!" tôi choàng dậy vội chạy ra, anh Đức và Triều hai tổ viên ở phố Hàng Giấy đã đến. Trông Đức "oai phong lẫm liệt" quá, quần "soóc", sơ mi cộc tay, để lộ đôi tay trần rắn chắc. Bụng giất khẩu súng lục "ổ quay"; tay cầm cây gỗ dài bào nhẵn đầu buộc chặt lưỡi lê... Anh Triều người "nhỏ thó" mặc gọn gàng, tay nắm con dao găm "tí xíu", hóm hỉnh bảo tôi: "Cho tớ một thanh kiếm". Nhà chật, các anh đứng đợi ở cửa. Tôi và Tá lễ mễ khuân ra: gươm, dao, băng đeo tay... vừa lúc đó, tổ anh Vân ở phố Lò Đúc cũng đến.
Tá thợ nề rỉ tai tôi: "Cậu Lâm cho tôi cầm cờ nhé". Tôi biết anh muốn nhận nhiệm vụ vinh quang đó thay tôi, vì trong trận này biết đâu người cầm cờ đi đầu, có thể là người đầu tiên nhận sự hy sinh. Tôi rất quý anh thanh niên nông thôn ấy. Anh ra làm phụ cho bác "phó nề", người ở chung nhà với tôi. Anh ít học nên thấy chúng tôi nhanh nhẹn, có học, biết tiếng Pháp, nhất là lại "chính gốc" Hà Nội, nên anh có phần vị nể. Đối với tôi, tôi cảm thấy anh có vẻ quý, nhiều lần, nhận nhiệm vụ chiến đấu anh thường đi sát tôi, vừa như muốn nhận ở tôi cái gì đó, và cũng như muốn bảo vệ tôi. Toàn đội đeo băng đỏ, nắm chắc trong tay những thanh gươm mài sáng quắc, mặt mày rạng rỡ. Tá giương cao cờ, chúng tôi tiến về Tám Mái. Dọc đường nhiều thanh niên yêu nước nhập vào đi cùng chúng tôi. Không biết các bạn trẻ ngày nay nghĩ sao chứ lúc đó tôi cảm thấy mình "hùng dũng" lắm. Tôi rất tự hào về việc làm của mình.
Anh Tá, cầm cờ đi đầu. Không rõ anh đã chuẩn bị tự bao giờ, anh khâu bao vải to, đeo lủng lẳng con dao xây đã mài sắc, đầu ngẩng cao, đi nghiêm túc. Nhìn anh tôi nghĩ: đúng là một ông "tướng" thợ nề xuất trận. Lúc chúng tôi xuất phát, bà con hai bên phố tôi đổ xô ra cửa nhìn, trầm trồ, có bà reo lên: "Việt Minh người phố ta”.
Nghe câu: "Việt Minh người phố ta" tôi thấy tự hào và xúc động làm sao.