(Nhân dịp Kỷ niệm 990 năm Thăng Long Hà Nội và đón xuân Tân Tỵ)
(*) Bài đã đăng báo Văn nghệ số tết Tân Tỵ - 2001
Mỗi người từ nhỏ đến lúc tuổi cao, đi qua bao nhiêu cái tết. Có cái tết trôi qua mờ nhạt, có cái tết để lại ấn tượng khó phai mờ. "Ôn cố tri tân" có lẽ cũng là một nét riêng của tâm hồn Việt Nam, mỗi độ đón xuân về. Chả thế mà cách đây 60 năm (1940 tết Canh Thìn) nhà thơ tài hoa Nguyễn Bính, nhìn cánh đào rơi, khúc "nhạc xuân" ngân lên, ông nhớ đến bao cảnh cũ, người xưa:
Hôm nay là xuân, mai còn xuân
Mỗi cánh đào rơi, nhớ cố nhân
Sau khi tham gia Tổng khởi nghĩa, ngay chiều ngày 19-8-1945 chúng tôi tập trung ngay ở trại Bảo An Binh. Từ đó tôi trở thành anh Giải phóng quân Hà Nội, rồi Vệ quốc quân.
Từ những ngày đầu cuộc kháng chiến ở Thủ đô, đơn vị tôi, Đại đội 134, Tiểu đoàn 56 chiến đấu ở Ô Câu Dền, đê Thanh Nhàn... Đầu tháng 1 năm 1947 đại đội được điều sang mặt trận Giảng Võ.
Sáng ngày 5 tháng 1 năm 1947, tôi cùng anh Trang - trung đội trưởng và các tiểu đội trưởng đi men đê La Thành để nghiên cứu phương án chiến đấu. Anh Trang nói vui: Ông chính trị viên ơi! Hôm nay là 14 tháng chạp rồi đấy. Tết này phải tổ chức cho thật "oách" nhé. Tôi cười trả lời: Nhất định rồi, thanh niên Hà Nội mà.
Bỗng tiếng nổ: "Tác bọp". Một tên bắn lén nã một phát đạn "đum đum". Đạn nổ sát chân, mảnh đạn xuyên qua cổ chân trái, tôi ngã vật xuống.
Một đồng chí lao lên, anh bị trúng đạn. Cằm dưới bị vỡ, máu tràn đầy ngực.
Tôi được cõng về đơn vị, nói là đơn vị nhưng thực ra là nhà dân. Ngày đó khu vực Giảng Võ, toàn là nhà tranh vách đất. Nhân dân đã đi tản cư hết. Tiểu đội cứu thương của đơn vị, là những cô gái làng hoa Ngọc Hà, trẻ trung và cũng rất tinh nghịch. Tôi là thương binh đầu tiên ở trận này, nên các cô rất quan tâm. Cô tổ trưởng mới 17 tuổi bảo tôi: Anh đừng đi đâu cả, cứ nằm ở đơn vị, chúng em sẽ chăm sóc. Người Hà Nội chúng mình ở lại đây cùng chiến đấu, sống chết có nhau...
Trong bối cảnh, đạn nổ ầm ầm. Tôi bị thương, các bạn tôi đang vội vã chuẩn bị chiến đấu, tôi thấy xúc động quá, chảy nước mắt. Các cô xúm lại trêu: Anh nhớ ai mà khóc thế. Có cô lại cười to: Eo ôi! Chính trị viên mà lại khóc nhè. Thế là các cô đấm vào lưng nhau thùm thụp, cười như nắc nẻ. Tôi cũng vui lây.
Tối hôm đó (5-1-1947) anh Lê Trí Thực, một học sinh trường Bưởi (Trường Chu Văn An bây giờ), anh cùng hoạt động với tôi từ trước Cách mạng tháng Tám ở Hà Nội. Cả hai chúng tôi đều là đảng viên Đảng Cộng sản, sàn sàn tuổi nhau, tôi 18, anh 20, lại cùng ở một đại đội, nên chúng tôi thân nhau. Tôi là chính trị viên trung đội, anh là chính trị viên đại đội. Anh đến khuyên tôi, về tuyến sau điều trị.
Mặc cho tôi phản đối, anh nói tiếp: Đảng quyết nghị cậu phải về tuyến sau. Thế là ngay tối hôm đó, tôi được cáng về trạm y tế tiền phương ở ấp Thái Hà.
Cả đêm hôm đó, thao thức không sao ngủ được, phần thì vết thương sưng tấy lên, đau nhức, phần thì nhớ đơn vị...
Mò sáng, ngày 6-1-1947, nghe tiếng súng nổ dồn dập ở hướng Giảng Võ, lòng tôi bồn chồn, lo lắng... Tôi nghĩ đến bao khuôn mặt thân thương: Đại đội trưởng Vũ Công Định - một thanh niên tính tình cương nghị. Lê Trí Thực - Bí thư chi bộ, người bạn tâm tình, cái kẹo bẻ đôi. Tôi nhớ đến những nụ cười hồn nhiên, tinh nghịch của các cô gái làng hoa Ngọc Hà, nhớ đến đồng đội, vì cứu tôi mà bị thương... Lòng tôi nóng như lửa đốt.
Khoảng gần trưa, y tá đại đội chạy vào chỗ tôi, vừa thở, vừa nói: Đơn vị rút khỏi trận địa, tôi rẽ vào thăm anh.
Tôi cướp lời, hỏi: Đại đội chiến đấu thế nào? Tại sao lại rút?
- Ta chiến đấu đã gần hết đạn, thương vong nhiều lắm. Đại đội trưởng và chính trị viên ở lại chặn địch cho đơn vị rút. Khi rút lui, lội qua hồ Giảng Võ, tiểu đội nữ cứu thương hy sinh gần hết...
Nói xong anh nắm chặt tay tôi nói vội: Anh điều trị cho khỏe, tôi đi theo cáng thương binh.
Tôi lặng người đi, nghẹn ngào, nước mắt rưng rưng, không nói nổi một lời tạm biệt. Ngay hôm đó tôi được cáng về thị xã Hà Đông, rồi theo sông Nhuệ xuôi thuyền về phía Vân Đình.
Nhiều thương binh mới tiếp tục đến. Qua số thương binh của đơn vị, tôi được biết:
Quân Pháp có nhiều xe tăng, xe bọc thép yểm trợ. Trận địa của ta lại ở đoạn địa hình trống trải. Chiến đấu diễn ra rất ác liệt. Có nhiều đợt quân ta phải dùng lê, đánh giáp lá cà. Địch chết nhiều, nhiều xe bọc thép bị phá hủy. Ta hy sinh gần 40 đồng chí. Để tránh bị bao vây, Đại đội trưởng và chính trị viên ở lại chiến đấu, chặn địch.
Hai thanh niên Hà Nội, hai đảng viên Cộng sản trẻ tuổi ấy đã anh dũng hy sinh...
~*~
Trạm quân y, nơi tôi điều trị, là đình làng, dành cho thương binh nặng. Trong số đó, tôi là người nhẹ nhất. Tuy chân trái bị thương, nhưng chống gậy vẫn "lò cò" đi lại được. Nằm đối diện với tôi là anh Nguyễn Văn Cổn, một đại đội trưởng Vệ quốc đoàn. Anh bị cụt bàn tay phải. Trường hợp bị thương của anh cũng rất đặc biệt. Anh kể lại: Xe tăng của giặc xông vào trận địa ta, một chiến sĩ Vệ quốc quân vọt lên đâm bom ba càng, nhưng người chiến sĩ ấy chưa lao đến nơi đã hy sinh. Anh Cổn vọt lên nhặt lấy bom ba càng đâm vào xe tăng địch. Bom sịt. Anh tức quá rút súng lục kề vào lỗ quan sát của xe tăng bóp cò, cùng lúc ấy địch bắn ra, anh gẫy tay. Xe tăng địch rú ga chạy lùi.
Nằm cạnh tôi một chú bé tên là Vĩnh, 15 tuổi. Em Vinh là liên lạc viên của một đơn vị Vệ quốc. Trong khi vượt qua đường phố để truyền mệnh lệnh, lúc đó địch đang bắn mạnh, em vọt qua và bị bắn gẫy chân... Thỉnh thoảng em thủ thỉ nói: Cụt chân em chả sợ, sau này có chân giả em vẫn đi được. Chỉ "ức" là không được chiến đấu nữa.
Ở bệnh viện, có nhiều nữ y tá nguyên là nữ sinh Hà Nội, tham gia đội quân "Hồng thập tự" làm công việc cứu thương. Khi tiếng súng kháng chiến ở Hà Nội bùng nổ. Các cô trở thành y tá bệnh viện. Trong hoàn cảnh chiến tranh, gặp nhau, chúng tôi thân nhau và kết thành anh, em.
Anh Nguyễn Cổn cao tuổi nhất là anh cả.
Chị Vượng y tá tuổi trên 20, lúc đó cũng là cao, nên chúng tôi gọi là chị.
Các cô y tá: An, Châu, Hải... là em.
Chú Vinh là em út.
~*~
Tết Đinh Hợi đã đến. Chúng tôi chuẩn bị đón năm mới. Chị Vượng bảo tôi: Em ạ, "chẳng thơm cũng thể hoa nhài"”... là thương binh càng phải chuẩn bị cho thật rôm rả, cho xứng tên người "Tràng An" em nhé.
Chúng tôi xin thuốc đỏ, xin thuốc ký ninh để hòa làm màu vàng, rồi kẻ một khẩu hiệu thật đẹp: Tổ quốc Việt Nam muôn năm, vẽ cả Tháp Rùa, có cả cành bích đào bằng giấy rất đẹp...
Sáng mồng 1 tết (22-1-1947) nhân dân các làng Sêu, Trinh Tiết đến thăm hỏi thương binh rất đông. Nhìn những thanh niên Hà Nội, khôi ngô, trẻ măng, người thì cụt chân, cụt tay, nhiều bà, nhiều chị chảy nước mắt...
Anh Ty, thương binh cụt một chân, chân còn lại vẫn đang cuốn băng, anh thay mặt thương binh cảm ơn nhân dân. Anh quá xúc động nói to như hét: Nếu quân Pháp tràn đến đây, dù cụt chân, tôi nguyện ôm mìn lăn ra cản xe tăng...
Lời nói từ đáy lòng người chiến sĩ quả cảm ấy, làm mọi người xúc động.
Không khí trong đình lặng đi. Anh Cổn vẫy cánh tay cụt gọi: Chú Xuân ơi, hát đi. Chị Vượng nói nhỏ: Em ơi hát lên cho vui.
Thế là tôi "lò cò" ra giữa đình, chị Vượng theo ra đứng cạnh. Tôi vịn vào vai chị, đứng một chân, hát:
....."Tiến lên đường,
Tới sa trường,
Ta xứng danh là cảm tử quân”
Tôi hát say sưa và cũng không nhớ sẽ phải kết thúc ở đoạn nào.
Không khí trong đình sôi nổi hẳn lên. Các cô gái làng, tròn xoe mắt nhìn tôi, còn bác sĩ Thịnh, người phụ trách trạm quân y, đứng tựa cột đình nhìn tôi, mỉm cười...
Hát xong, mấy cô gái bạo dạn nhất, chạy đến chỗ tôi ríu rít nói: Anh hát hay quá. Ra tết dạy chúng em với. Chả biết tôi hát có hay thật không, nhưng chắc chắn là tôi hát bằng tất cả trái tim của anh Vệ quốc quân, nguyện hy sinh chiến đấu vì nền độc lập tự do của Tổ quốc.
Đêm mồng 1 Tết năm Đinh Hợi, tiết đại hàn rét ghê quá. Tôi chỉ có độc một bộ quần áo mặc trên người, đắp chiếc chăn đơn mỏng tang. Rét không ngủ được, nằm co quắp, nghĩ miên man... Bao nhiêu kỷ niệm ùa tới. Tôi nhớ đến anh Thực, anh Định, nhớ tiếng cười trong trẻo, hồn nhiên của các cô gái làng hoa Ngọc Hà... Phải chi, nếu quân xâm lược Pháp không gây ra cảnh chiến tranh này, thì những nam, nữ thanh niên kia, biết đâu sau này có người trong số họ trở thành nhân tài của đất nước...
Họ phải ra đi, khi còn quá trẻ, đang ở độ tuổi "trăng tròn”...
Tôi nghĩ đến gia đình mình, trên đường tản cư, không biết phiêu dạt ở nơi đâu. Còn người con gái Hà Nội mà tôi đem lòng yêu dấu nay còn hay đã chết. Hà Nội ba mươi sáu phố phường, nơi tôi đã sinh ra, lớn lên với biết bao kỷ niệm buồn, vui, vẫn đang ầm vang tiếng súng, phố xá mịt mù khói lửa chiến tranh...
Còn tôi vỡ cổ chân, vì đạn của quân thù nằm đây, bất lực...
Tôi thấy có cái gì đó dâng lên ngang cổ họng, lòng uất ức nghẹn ngào, bật lên tiếng khóc. Tôi vội bịt chặt mồm, khẽ lần ra sân đình, ngồi dưới gốc cây, gục mặt lên hai lòng bàn tay, răng nghiến chặt, nước mắt đầm đìa.
Không biết từ lúc nào, chị Vượng đã ra ngồi cạnh tôi. Chị quàng tay lên vai tôi hỏi:
- Em đau lắm à?
Tôi lắc đầu.
- Thế em nhớ nhà à?
Tôi lắc đầu.
Chị nhẹ nhàng, thủ thỉ. À chị biết rồi, em nhớ đơn vị muốn trở về chiến đấu. Chị mong cho em chóng khỏi để sớm trở về đơn vị. Chắc chắn ngày kháng chiến thành công, chị em ta sẽ gặp nhau ở Hà Nội.
Tôi thấy lòng mình dịu đi, ngồi gục đầu vào vai chị. Hai chị em cứ ngồi như vậy cho tới khi gà gáy sáng.
Giữa năm 1947, tôi trở về lại Đại đội 134 của tôi và giữ trách nhiệm chính trị viên đại đội, Bí thư chi bộ Đảng. Từ đấy tôi đi tiếp trên con đường dài đánh giặc đằng đẵng 30 năm dòng cho tới ngày toàn thắng.
Trên nửa thế kỷ đã trôi qua. Các cô y tá An, Châu đều là sĩ quan quân y đã nghỉ hưu ở Hà Nội. Chị Vượng đang vui sống với người con trai ở Hà Nội. Còn chú em út Vinh, trung tá, dược cao, nghỉ hưu ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhớ lại cái Tết đầu tiên ở trạm quân y ngày ấy, tôi vẫn bồi hồi, xúc động. Không biết, có phải không? Mỗi khi ta nhìn sâu vào những dòng nước mắt của quá khứ ta càng thấy rõ những nụ cười rạng rỡ của tương lai?
BỔ SUNG CHI TIẾT
1. Qua bài báo, em ruột đồng chí Lê Chí Thực đã đến gặp tôi tại nhà (2B ngõ 187 phố Mai Dịch) vào hồi 10 giờ 00 ngày 8-2-2001. Hai người em là: Nguyễn Hùng em trai và em gái là Nguyễn Thị Kim Thìn cho biết thêm các chỉ tiết.
a) Lê Chí Thực (chứ không phải là Trí là bí danh - khi hoạt động cách mạng, còn tên thật là Nguyễn Văn Thung. Quê ở làng Hạ Trì - Thị xã Hà Đông.
b) Tuổi là 22 (năm 1947) và học hết đệ tứ ở trường Bưởi.
2. Qua điện thoại của Hà Thanh An (cô y tá An) báo tin chị Vượng sẽ đến thăm. Chị Vượng hiện sống với con trai ở quận Thanh Xuân, Hà Nội.
3. Đã gặp chị Vượng (25-3-2001) thật bất ngờ chị Vượng còn giữ được tấm ảnh chụp năm 1947. Trước khi tôi rời quân y về đơn vị. Ôi, lại thấy mình “Anh Vệ quốc quân" đội mũ calô, đeo sao vàng hồi đầu kháng chiến chống Pháp...